Ung thư buồng trứng là loại ung thư cướp đi mạng sống của phụ nữ nhiều hơn bất cứ loại ung thư nào ở cơ quan sinh sản. Tuy nhiên, rất ít phụ nữ biết về các yếu tố nguy cơ cũng như các dấu hiệu cảnh báo sớm của căn bệnh này.
Có thể bị bệnh sau khi đã cắt bỏ buồng trứng hay không?
Có, vẫn có thể phát triển ung thư buồng trứng hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát (một bệnh liên quan chặt chẽ đến ung thư buồng trứng). Nguy cơ bị bệnh sẽ phụ thuộc vào loại phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng mà bạn đã thực hiện. Cắt bỏ một phần buồng trứng (chỉ cắt bỏ tử cung) và cắt bỏ hoàn toàn (cả buồng trứng và cổ tử cung) vẫn sẽ bảo tồn buồng trứng của bạn, nghĩa là bạn vẫn có thể bị ung thư.
Cắt bỏ hoàn toàn buồng trứng và vòi trứng sẽ bao gồm cắt bỏ cổ tử cung, tử cung, hai buồng trứng và ống dẫn trứng. Khi không còn buồng trứng nữa, nguy cơ ung thư của bạn sẽ giảm xuống đáng kể. Nhưng bạn vẫn sẽ có nguy cơ nhỏ mắc một loại ung thư tương tự như ung thư buồng trứng là ung thư phúc mạc nguyên phát, ảnh hưởng đến các tế bào ở lớp niêm mạc lót trong các cơ quan ở ổ bụng. Tuy vậy, nguy cơ chỉ là rất nhỏ, nhỏ hơn rất nhiều so với nguy cơ ung thư buồng trứng nếu bạn vẫn còn buồng trứng.
Phấn rôm có gây ung thư buồng trứng không?
Bạn có thể đã từng nghe đâu đó về vụ kiện giữa người tiêu dùng và các nhà sản xuất phấn rôm vì cho rằng bột talc (thành phần của phấn rôm) có thể gây ung thư buồng trứng. Một trong số những nhà sản xuất đã thua kiện và phải bồi thường một khoản tiền lớn. Vậy bạn có nên lo ngại về vấn đề này không?
Lý thuyết của vụ kiện này là nếu bột phấn rôm được sử dụng ở khu vực sinh dục, thì các phân tử bột phấn có thể đi vào âm đạo, tử cung và ống dẫn trứng đi đến buồng trứng, từ đó có thể gây viêm và ung thư. Tuy vậy, các nghiên cứu xem xét mối liên quan giữa bột talc và nguy cơ ung thư buồng trứng cho kết quả rất lẫn lộn, một số cho thấy tăng nguy cơ, một số khác thì không.
Nghiên cứu lớn nhất tính cho đến thời điểm này được xuất bản tháng 1 năm 2020 trên tạp chí Hiệp hội Y học Hoa Kỳ xem xét dữ liệu từ hơn 250.000 phụ nữ trong nhiều năm. Tác giả kết luận rằng không có mối lien quan có ý nghĩa thống kê giữa việc sử dụng bột talc ở khu vực sinh dục và nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng. Nhưng tác giả lưu ý rằng do tỷ lệ ung thư buồng trứng phát hiện được thấp, nên có thể nghiên cứu chưa đủ lớn để tìm ra mối liên quan.
Vậy có thể kết luận gì? Nếu có bất cứ mối liên quan nào giữa việc sử dụng bột talc và nguy cơ ung thư buồng trứng, thì tỷ lệ gia tăng nguy cơ sẽ rất nhỏ.
Có nhiều nhiều lầm về các sản phẩm từ đậu nành, do những sản phẩm này có chứa isoflavone – một chất có tác dụng tương tự như estrogen trong cơ thể. Về lý thuyết, isoflavone có thể làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư nhạy cảm với estrogen ở phụ nữ, ví dụ như ung thư buồng trứng. Nhưng estrogen thực vật dường như yếu hơn nhiều so với estrogen ở người. Do vậy, chưa quan sát được bất cứ mối liên quan nào giữa việc tiêu thụ nhiều chế phẩm từ đậu nành và nguy cơ ung thư buồng trứng cả.
Ngược lại, có một số bằng chứng cho thấy isoflavone có thể giúp bảo vệ chống lại tình trạng ung thư buồng trứng bằng cách ngăn chặn một số estrogen tự nhiên trong máu. Nhiều nghiên cứu cho thấy những phụ nữ tiêu thụ nhiều isoflavone có tỷ lệ bị ung thư buồng trứng thấp hơn. Ung thư buồng trứng dường như cũng có tỷ lệ thấp hơn ở các nước châu Á, nơi có thói quen tiêu thụ các sản phẩm từ đậu nành.
Các chế phẩm từ đậu nành như đậu phụ, tempeh, đậu tương len men, miso, sữa đậu nành là nguồn cung cấp protein rất tốt. Đậu nành cũng giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và giảm cholesterol.
Làm thế nào để phát hiện sớm ung thư?
Chỉ có khoảng 20% số trường hợp ung thư buồng trứng được phát hiện ở giai đoạn sớm, dễ điều trị, trước khi ung thư lan ra các cơ quan khác. Một lý do là vì không có một xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn nào có thể phát hiện ung thư buồng trứng cả.
Một vấn đề khác là các triệu chứng sớm của bệnh thường rất dễ bị bỏ qua. Ung thư buồng trứng giống như kẻ giết người thầm lặng. Bạn sẽ biểu hiện các triệu chứng như đầy bụng, đau bụng và bạn sẽ nghĩ đó là dấu hiệu của một vấn đề khác liên quan đến tiêu hoá. Đó là lý do vì sao ung thư buồng trứng thường rất khó phát hiện.
Chỉ có thể phân biệt triệu chứng ung thư buồng trứng dựa vào tần suất và mức độ nghiêm trọng của triệu chứng. Nếu bạn xuất hiện các triệu chứng sau hàng ngày, hoặc gần như hàng ngày trong vòng 2 tuần, hãy đến gặp bác sĩ:
Nếu bạn có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng (do gen, di truyền hoặc tiền sử gia đình), bạn sẽ cần phải sàng lọc hàng năm và siêu âm vùng chậu định kỳ.
U nang buồng trứng có phải ung thư không?
Có thể, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều như vậy. U nang buồng trứng là những nang nhỏ chứa đầy dịch phát triển bên trong hoặc trên buồng trứng. Đa số các loại u nang đều vô hại và xảy ra như một phần thông thường của quá trình rụng trứng. Đó gọi là u nang chức năng và thường biến mất trong vòng vài tháng mà không cần điều trị.
Rất hiếm khi, u nang buồng trứng tiến triển thành ung thư. Khi đó, bác sĩ sẽ phải kiểm soát và đảm bảo rằng khối u không phát triển quá lớn. Khi khối u phát triển quá lớn và gây ra các triệu chứng, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu phẫu thuật để loại bỏ. Nguy cơ u nang phát triển thành ung thư ở phụ nữ sau mãn kinh sẽ cao hơn so với phụ nữ trẻ.
Các biện pháp điều trị sinh sản có làm tăng nguy cơ ung thư không?
Vì các biện pháp điều trị sinh sản sử dụng hormone nên có một vài lo ngại cho rằng các biện pháp này sẽ làm tăng nguy cơ ung thư có liên quan đến hormone, bao gồm cả ung thư buồng trứng.
Rất nhiều nghiên cứu đã xem xét mối liên quan giữa thụ tinh nhân tạo (IVF) sử dụng các thuốc như Clomid với nguy cơ ung thư. Nhưng kết quả còn chưa rõ ràng. Một số cho thấy tăng nhẹ nguy cơ, và một số thấy rằng nguy cơ không tăng.
Hiện nay các chuyên gia đều đồng ý rằng việc tăng nguy cơ ung thư chủ yếu là do vấn đề vô sinh mang lại, chứ không phải do các phương pháp điều trị sinh sản. Nếu bạn không thể mang thai, bạn sẽ thường xuyên rụng trứng và sẽ tiếp xúc nhiều với estrogen hơn so với những người có thể mang thai. Một số yếu tố khác liên quan đến vô sinh như béo phì và lạc nội mạc tử cung cũng có thể làm tăng nhẹ nguy cơ ung thư.
Cần có nhiều nghiên cứu hơn để đưa ra kết luận, nhưng ở thời điểm này, bạn không nên lo lắng.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Vaccine COVID-19 có gây vô sinh không?
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.