Khi nào thì cần điều trị ho?
Ho là một triệu chứng, không phải là bệnh. Đây cũng là một phản xạ có lợi của cơ thể, nhằm làm sạch đường thở và tống đẩy các chất dịch tiết, vật lạ, vi khuẩn ra ngoài... Do đó, hầu hết trong các trường hợp là không cần phải dùng thuốc để điều trị ho, mà cần phải tìm nguyên nhân gây ho để điều trị nguyên nhân thì triệu chứng ho sẽ hết. Tuy nhiên, khi chưa xác định được nguyên nhân gây ho hoặc việc dùng thuốc điều trị nguyên nhân gây ho cũng chưa khống chế được các cơn ho dữ dội, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, thì việc dùng thuốc điều trị triệu chứng ho và dùng thuốc làm cho đờm thoát ra ngoài cũng rất cần thiết.
Việc sử dụng thuốc ho loại nào còn phụ thuộc vào tình trạng ho. Thông thường hay gặp hai dạng ho là ho khan và ho có đờm. Ho khan là tình trạng ho mà không tiết ra các dịch tiết nhầy, thường gây ngứa họng, rát họng và có thể gây khản giọng hoặc mất tiếng. Ho có đờm thường liên quan tới một bệnh lý ở đường hô hấp. Trong trường hợp ho khan, chỉ dùng thuốc giảm ho, không được dùng thuốc loãng đờm. Ngược lại, khi ho có đờm thì phải dùng thuốc loãng đờm, long đờm... mà không được sử dụng thuốc giảm ho.
Sử dụng thuốc ho cần dựa vào tình trạng ho.
Thuốc dùng trong trường hợp ho khan
Thuốc có tác dụng giảm ho do ức chế trung tâm gây ho như codein, pholcodin, dextromethorphan... chỉ dùng trong trường hợp ho không có đờm (ho do cảm cúm, ho do kích ứng, dị ứng); ho nhiều làm người bệnh mệt mỏi, mất ngủ. Những thuốc trị ho có chứa codein chỉ dành cho người lớn, không dùng cho trẻ em vì gây ức chế hô hấp. Đối với bệnh nhân bị suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em, phụ nữ có thai và cho con bú... tuyệt đối không được dùng thuốc này.
Thuốc kháng histamin chống dị ứng (kháng histamin H1 thế hệ 1) đồng thời có tác dụng làm dịu, giảm ho và an thần như diphenylhydramin, chlopheniramin, alimemazine, promethazine... được điều trị các chứng ho khan do dị ứng, kích ứng. Nhược điểm chính của các thuốc này là gây buồn ngủ do tác động trên các thụ thể H1 ở não, vì vậy bất lợi khi dùng thuốc ban ngày nhưng thuận lợi khi dùng về đêm và không được dùng thuốc khi lái xe, vận hành máy móc... Loại thuốc này cũng có tác dụng làm khô quánh đặc dịch tiết, khó tống đờm, có thể gây ra cục đờm tắc nghẽn, vì vậy không nên dùng trong trường hợp ho có đờm, người hen suyễn.
Ngoài ra, thuốc trị ho còn có nhóm các thuốc tê do tác dụng gây tê các ngọn dây thần kinh gây phản xạ ho nên làm giảm ho như các hoạt chất benzonatat, menthol, lidocain... được dùng qua đường hít, ngậm.
Nên dùng liều thấp nhất có tác dụng và trong thời gian càng ngắn càng tốt để hạn chế tác dụng phụ của thuốc.
Thuốc dùng trong trường hợp ho có đờm
Thuốc tác dụng trên đờm là tất cả các thuốc làm thay đổi đặc tính, tính chất, số lượng và độ bám dính của đờm trên bề mặt đường thở. Thông thường trên đường thở lúc nào cũng có một lớp nhầy, có độ dính, độ ẩm và số lượng vừa phải để bảo vệ đường hô hấp. Nhưng khi hệ hô hấp bị bệnh lý thì lớp nhầy này bị thay đổi tính chất, trở nên bám dính, đặc quánh và khi đó nó được gọi là đờm.
Các thuốc như ambroxol, carbocystein, bromhexin... có tác dụng long đờm và tiêu chất nhầy, làm giảm độ đặc quánh của đờm, chất nhầy khiến bệnh nhân dễ khạc ra ngoài thông qua phản xạ ho. Cẩn trọng với người có tiền sử loét dạ dày - tá tràng (vì thuốc có ảnh hưởng tới lớp nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày).
Một số thuốc như guaifenesin, natribenzoat, terpihydrat... có tác dụng làm loãng đờm, làm tăng sự tiết dịch (chủ yếu là nước) trên bề mặt đường hô hấp. Sự tăng tiết này làm đờm có thêm nước hòa tan nên sẽ làm tăng khối lượng đờm, tăng thể tích đờm, đờm trở nên lỏng ra, dễ khạc ra ngoài.
Khi dùng các thuốc tác dụng trên đờm này người bệnh cần uống nhiều nước để đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Mặc dù theo lý thuyết thì khi có đờm phải dùng thuốc long đờm, loãng đờm... để giúp dễ dàng khạc đờm ra ngoài, làm sạch đường hô hấp. Tuy nhiên, tùy mức độ đờm mà việc sử thuốc khi nào là hợp lý. Chẳng hạn khi một trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, nếu đang có sự tăng tiết đờm quá nhiều, đang nhiều ran ẩm và ran nổ, đang có viêm phổi thì việc dùng thuốc lúc này sẽ đẩy viêm phổi mạnh hơn. Bởi trong phổi sẽ càng nhiều dịch, càng nhiều tiếng ran hơn và càng khó thở... Hoặc bệnh nhân đang bị COPD lượng đờm tiết ra trong những đợt cấp tính là rất nhiều, nếu tiếp tục dùng các thuốc long đờm này sẽ rất bất lợi, vì ho sẽ càng tăng và khó thở sẽ càng rõ rệt... Do đó, việc sử dụng thuốc long đờm phải tuân thủ chặt chẽ chỉ định của bác sĩ.
Không dùng đồng thời kết hợp thuốc trị ho với thuốc long đờm, bởi khi dùng thuốc long đờm thì đờm sẽ tiết nhiều hơn nhưng triệu chứng ho giảm (do dùng thuốc giảm ho) nên đờm không được khạc ra sẽ làm bệnh thêm trầm trọng.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những sự thật về bệnh cúm thường bị hiểu lầm
Lipoprotein cholesterol tỷ trọng thấp (LDL), là loại cholesterol xấu có thể làm tăng nguy cơ đau tim và đột qụy. Cholesterol LDL đóng vai trò quan trọng trong việc tích tụ các chất béo bên trong động mạch, có thể khiến các mạch máu bị thu hẹp theo thời gian, làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ.
Các loại phô mai từng bị coi là thực phẩm kém lành mạnh vì hàm lượng chất béo bão hòa cao, có thể làm tăng cholesterol trong cơ thể. Tuy nhiên, nghiên cứu mới cho thấy chúng cũng có thể mang tới những lợi ích nhất định.
Bệnh tiểu đường có lẽ được biết đến nhiều nhất với các triệu chứng điển hình như lượng đường trong máu cao và đi tiểu thường xuyên. Bên cạnh đó, tình trạng bệnh lý này cũng có thể dẫn đến các biến chứng ảnh hưởng đến bàn chân và cẳng chân của bạn. Điều này đòi hỏi người bệnh phải biết cách chăm sóc tốt cho bàn chân của mình. Dưới đây là lý do tại sao bạn nên chăm sóc đặc biệt cho phần chi dưới nếu mắc bệnh tiểu đường và cách chăm sóc bàn chân dành cho người tiểu đường.
Bơ động vật và bơ thực vật là nguyên liệu không thể thiếu trong ẩm thực, nhất là với ngành bánh. Nó không chỉ góp phần tạo nên hương thơm đặc trưng mà còn giúp chiếc bánh thêm mềm mịn hơn. Tuy nhiên, nhiều người thắc mắc loại bơ nào bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe hơn?
Hệ miễn dịch là một trong những "tuyến phòng thủ" của cơ thể giúp chống lại các tác nhân bên ngoài. Hệ miễn dịch không khỏe sẽ khiến cơ thể dễ mắc nhiều bệnh. Chế độ dinh dưỡng có vai trò quan trọng tăng cường khả năng miễn dịch, điển hình là việc cung cấp 5 dưỡng chất sau.
Vitamin B12 là một vi chất quan trọng đối với cơ thể. Vì vậy, nếu thiếu loại vitamin này sẽ gây ra nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau, bao gồm vấn đề về lưỡi.
Xét nghiệm sàng lọc HIV sẽ kiểm tra xem bạn có bị nhiễm virus HIV hay không. Khoảng 1,2 triệu người ở Mỹ nhiễm HIV. Nhưng cứ 7 người thì có 1 người không biết tình trạng nhiễm HIV của mình. Ngoài ra, khoảng 40% số ca nhiễm mới lây lan bởi những người không biết về tình trạng HIV của mình hoặc chưa xét nghiệm.
Sau đây là những điều thú vị về khứu giác và mùi hương cơ thể của con người.