Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Làm gì để phòng bệnh bạch hầu?

Sở Y tế Quảng Nam cho biết, trong tuần từ 4 - 9/1, tại Trường THPT Tây Giang có hai học sinh lớp 11 tử vong vì bệnh bạch hầu là em Bhling Boong (17 tuổi, trú tại thôn Aur, xã A Vương).

Sở Y tế Quảng Nam cho biết, trong tuần từ  4 - 9/1, tại Trường THPT Tây Giang có hai học sinh lớp 11 tử vong vì bệnh bạch hầu là em Bhling Boong (17 tuổi, trú tại thôn Aur, xã A Vương). Trong đó, em Bhling Boong khởi bệnh từ ngày 24/12/2016 đến ngày 4/1/2017 bệnh trở nặng, được đưa vào Trung tâm y tế huyện Tây Giang trong tình trạng khó thở, phải đặt nội khí quản và chuyển viện nhưng bệnh nhân tử vong trên đường chuyển viện. Còn em Zơrâm Sáo khởi bệnh từ ngày 2/1/2017 đến ngày 7/1/2017 được chuyển xuống Bệnh viện Hoàn Mỹ, sau đó chuyển sang BVĐK Đà Nẵng và tử vong ngày 9/1/2017. Qua lấy mẫu xét nghiệm, hai em có kết quả xét nghiệm dương tính với vi khuẩn bạch hầu. Trong vòng 5 năm gần đây Việt Nam đã khống chế tỷ lệ mắc bạch hầu xuống dưới 0,01 ca/100.000 dân. Các ca bệnh chỉ rải rác mà không có vùng dịch, tuy nhiên sự thiếu hiểu biết vẫn có thể tiếp tay cho căn bệnh“sát thủ” này quay trở lại.

Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây nên do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu, tên khoa học là Corynebacterium diphtheriae. Bệnh có thể từ nhẹ đến nặng, đặc trưng dễ nhận biết nhất của bệnh là lớp màng giả (giả mạc) màu trắng ở họng hầu hay trong mũi, thanh quản, có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục, trường hợp nặng có thể gây biến chứng và tử vong.

Bệnh lây truyền thế nào?

Bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn nhiễm độc do trực khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheria) gây ra. Vi khuẩn C.diphtheriae xâm nhập qua đường mũi, miệng rồi định vị ở niêm mạc đường hô hấp trên, sau thời gian ủ bệnh 2 - 4 ngày, ở những chủng có khả năng tiết độc tố, độc tố được sản xuất, bám vào màng tế bào rồi xuyên qua màng đi vào máu và phát tán đến các cơ quan. Hoại tử mô rất dữ dội tại nơi khuẩn lạc phát triển. Bệnh có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp qua đồ chơi, vật dụng. Vi khuẩn bạch hầu có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân có thể lây nhiễm cho người khác.

Tiêm vắc-xin cho trẻ là biện pháp phòng bệnh tốt nhất.

Dấu hiệu nhận biết bệnh

Tùy thuộc vào biểu hiện nhiễm trùng tại chỗ, tình trạng miễn dịch của bệnh nhân và mức độ lan tràn độc tố trong máu, bệnh bạch hầu thường được phân chia thành các thể tùy theo vị trí biểu hiện như sau:

Bạch hầu mũi: thường khó phân biệt với các bệnh lý viêm mũi họng cấp khác trên lâm sàng. Bệnh cũng biểu hiện bằng xuất tiết mủ - nhầy đôi khi có lẫn máu. Nếu thăm khám cẩn thận sẽ thấy một màng trắng trong hốc mũi. Sự hấp thu độc tố từ từ và các triệu chứng toàn thân nghèo nàn nên thường làm chậm chẩn đoán.

Bạch  hầu họng - amidan: Đây là thể bệnh thường gặp nhất của bạch hầu, chiếm tới hơn 2/3 trường hợp. Nhiễm khuẩn tại vị trí này thường kèm theo sự hấp thu độc tố vào máu rất nhiều. Khởi phát bệnh thường là viêm họng âm ỉ. Bệnh có thể biểu hiện sớm bằng các dấu hiệu như mệt mỏi toàn thân, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2 - 3 ngày hoặc có thể chậm hơn tới 5 ngày, một lớp màng màu trắng  xuất hiện và lan rộng dần. Màng giả ban đầu mỏng, màu trắng ngà, lan dần từ amidan đến vòm khẩu cái, màng giả dính với niêm mạc bên dưới và phủ mặt vòm hầu và thành sau họng có khi lan xuống thanh khí quản. Nếu bóc màng giả dễ gây chảy máu. Hạch bạch huyết vùng cổ phản ứng có khi phù nề vùng mô mềm của cổ rất trầm trọng tạo thành triệu chứng được gọi là dấu cổ bò “Bull neck”. Đây là triệu chứng rất nặng nề, có khi gây xuất huyết dưới da, xuất huyết tiêu hóa và tiểu ra máu, tình trạng này kéo dài trong vài ngày, nhanh chóng chuyển sang nhiễm độc nặng và tử vong.

Bạch hầu thanh quản: có thể do bạch hầu họng lan xuống nhưng cũng có thể do bệnh tại chỗ. Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và cực kỳ nguy hiểm. Dấu hiệu lâm sàng gồm sốt, khàn giọng, ho ông ổng. Do thanh quản là nơi hẹp nhất của đường thở nên nếu màng giả mạch hầu phát triển ở đây, nguy cơ gây tắc nghẽn đường thở rất nhanh đưa đến hôn mê và tử vong.

Bạch hầu ở các vị trí khác: có thể gặp là da, kết mạc mắt, niêm mạc vùng âm hộ - âm đạo hoặc lỗ tai ngoài.

Biến chứng nguy hiểm

Biến chứng do màng giả lan rộng gây tắc nghẽn đường thở và biến chứng do độc tố gây nên. Trường hợp bệnh bạch hầu mà chẩn đoán và điều trị muộn thì màng giả phát triển và lan nhanh xuống phía dưới thanh - khí phế quản sẽ gây tắc nghẽn đường hô hấp. Nếu cấp cứu không kịp thời bệnh nhân sẽ tử vong nhanh chóng.

Viêm cơ tim có thể xảy ra ở cả hai trường hợp bạch hầu nặng và nhẹ, nhất là khi có tổn thương tại chỗ lan rộng và khi có sự trì hoãn trong chỉ định kháng độc tố. Tỷ lệ viêm cơ tim là 10-25%. Tỷ lệ tử vong do viêm cơ tim là 50 - 60%. Viêm cơ tim có thể xuất hiện rất sớm vào những ngày đầu tiên của bệnh hoặc trễ hơn vào tuần thứ 4 đến tuần thứ 6. Đây là một biến chứng trầm trọng đòi hỏi sự chăm sóc theo dõi chặt chẽ, tỉ mỉ và điều trị tích cực. Thường tiên lượng là xấu.

Ngoài ra còn có biến chứng thần kinh thường xuất hiện sau một thời gian muộn hơn. Liệt khẩu cái cả hai bên và thường liệt vận động, liệt phần mềm của lưỡi gà tuần thứ 3, liệt cơ vận nhãn thường xuất hiện tuần thứ 5, nhưng cũng có thể xuất hiện trong tuần đầu đó là nguyên nhân gây cho bệnh nhân nhìn mờ và lác. Viêm dây thần kinh cơ hoành, gây liệt cơ hoành thường ở tuần thứ 5 đến tuần thứ 7.

Điều trị và phòng bệnh thế nào?

Người bệnh nhất thiết phải được điều trị tại bệnh viện bằng kháng sinh và nên dùng kháng độc tố ngay lập tức khi có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh. Cần cách ly bệnh nhân ít nhất 2 ngày sau điều trị kháng sinh thích hợp và đeo khẩu trang khi tiếp xúc. Ngoài ra, cần vệ sinh phòng ở, đồ dùng cá nhân, đồ chơi... bằng dung dịch sát khuẩn.

Tiêm vắc-xin là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh bạch hầu.

Lịch tiêm chủng vắc-xin phòng bạch hầu

Mũi 1: Tiêm khi trẻ được 2 tháng tuổi; Mũi 2: Sau mũi thứ nhất 1 tháng; Mũi 3: Sau mũi thứ hai 1 tháng; Mũi 4: Khi trẻ 18 tháng tuổi.

BS. Hoàng Văn Thái - Theo Sức khỏe & Đời sống
Bình luận
Tin mới
  • 16/12/2025

    Vai trò của chế độ ăn uống với sức khỏe răng miệng

    Sức khỏe răng từ những năm đầu đời là sự kết hợp khăng khít bởi ba yếu tố: sức khỏe và chế độ ăn uống từ giai đoạn bào thai, lượng fluoride phù hợp và thói quen vệ sinh răng miệng hàng ngày phù hợp với từng độ tuổi.

  • 16/12/2025

    7 mẹo để kiểm soát tình trạng buồn ngủ quá mức vào ban ngày

    Buồn ngủ quá mức vào ban ngày có thể khiến việc duy trì hoạt động bình thường trong ngày trở nên khó khăn. Các thay đổi trong lối sống và việc thực hành vệ sinh giấc ngủ hợp lý có thể giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ và giảm mệt mỏi vào ban ngày.

  • 15/12/2025

    Thức ăn dặm tiện lợi, cứu tinh hay cạm bẫy?

    Bánh ăn dặm có thực sự là lựa chọn tốt cho con, hay chỉ là "cạm bẫy" dinh dưỡng được đóng gói khéo léo?

  • 15/12/2025

    Lướt điện thoại khi đi vệ sinh có thể bị trĩ!

    Bạn có thường mang điện thoại vào nhà vệ sinh để giải trí trong những khoảnh khắc "riêng tư" không? Nếu câu trả lời là có, bạn có thể đang vô tình đặt sức khỏe của mình vào tình trạng nguy hiểm.

  • 14/12/2025

    8 loại hạt giàu magie nên ăn để giúp ngủ ngon

    Đối với người mất ngủ, việc bổ sung đủ magie thông qua ăn uống là một giải pháp hỗ trợ tự nhiên hiệu quả. Trong số đó, các loại hạt là một lựa chọn lành mạnh giàu magie giúp thúc đẩy thư giãn và ngủ ngon hơn.

  • 14/12/2025

    "Nỗi buồn mùa đông" của trẻ

    Sự chuyển giao thời tiết luôn đi cùng những đề kháng của cơ thể. Nhưng sự chuyển giao từ thu sang đông không chỉ đơn thuần là một sự chuyển tiếp: khi mùa đông đến, bầu trời xám xịt, nhiệt độ giảm mạnh, các hoạt động trong mùa đông đặt ra những trở ngại đặc biệt và khó khăn cho các bậc cha mẹ có con cái, đặc biệt hơn là với những đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt. Nếu mùa đông là một thử thách khó khăn đối với bạn và gia đình, bạn không đơn độc. Sự thấu hiểu, sáng tạo và chuẩn bị có thể giúp bạn vượt qua mùa này.

  • 14/12/2025

    Workshop "Con chậm tăng cân - Làm sao để bứt tốc?"

    Workshop dinh dưỡng miễn phí dành cho cha mẹ có con chậm tăng cân, hấp thu kém, nguy cơ suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng

  • 13/12/2025

    Vai trò của màng cầu chất béo sữa (MFGM) với sức khỏe xương

    Màng cầu chất béo sữa (Milk Fat Globule Membrane - MFGM) hay còn gọi là lớp màng bảo vệ chất béo trong sữa, là một cấu trúc phức tạp bao quanh giọt chất béo trong sữa mẹ hoặc sữa động vật. Nó chứa các thành phần quý phospholipid, glycoprotein và bioactive peptide có hoạt tính sinh học cao.

Xem thêm