Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Giải đáp: Tiêm vaccine phòng COVID-19 sau khi đã mắc bệnh – nên hay không và trong thời gian bao lâu?

Về bản chất, việc tiêm vaccine phòng COVID-19 hay mắc bệnh đều khiến cơ thể tự sản sinh ra kháng thể chống lại bệnh. Điều này đặt ra câu hỏi trong suy nghĩ của nhiều người: liệu kháng thể này tồn tại trong bao lâu? Nó có giúp chúng ta đề kháng lại trong các trường hợp mắc bệnh tiếp theo hay không? Và chúng ta có cần phải tiếp tục tiêm các mũi vaccine sau khi đã nhiễm bệnh hay không? Hãy cùng tìm hiểu câu trả lời từ các chuyên gia y tế trong bài viết dưới đây.

Dưới đây là những thắc mắc và câu trả lời của các Chuyên gia y tế - Đại diện Ủy ban khoa học Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các Chuyên gia y tế tại Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC)

Hỏi: Nếu tôi đã mắc COVID-19, tôi có cần tiêm vaccine tiếp hay không?

Trả lời: Sau khi nhiễm COVID, cơ thể chúng ta sẽ sản sinh phản ứng miễn dịch để chống lại chính tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, khả năng sản sinh miễn dịch lại khác nhau ở mỗi người, và nó phụ thuộc vào tình trạng nhiễm bệnh của từng cá nhân là nhẹ hay nặng. Hiện tại, nhiều nghiên cứu hiện nay đã chỉ ra rằng nếu một người mắc COVID-19 nhưng chỉ gặp phải tình trạng nhiễm trùng mức độ rất nhẹ hoặc không có triệu chứng, thì nhiều khả năng người đó chỉ có thể hình thành một mức độ kháng thể rất thấp. Đây chính là lý do tại sao việc tiêm vaccine vẫn được khuyến cáo – ngay cả khi bản thân đã bị nhiễm COVID-19. Các chuyên gia khuyên rằng nên tiếp tục và tiêm vaccine dù bạn đã từng mắc COVID-19, vì vaccine lúc này đóng vai trò như một chất hỗ trợ tăng cường hệ thống miễn dịch.

Hỏi: Tôi có nên chờ một khoảng thời gian sau khi hồi phục COVID-19 rồi mới tiêm vaccine hay không?

Trả lời: Về nguyên tắc, có thể tiêm vaccine ngay sau khi khỏi COVID-19. Tuy nhiên, các chuyên gia khuyên rằng nên nghỉ ngơi một thời gian – khoảng một vài tuần – để cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh trước khi đi tiêm phòng.

Việc tiêm sau khi đã mắc COVID-19 cũng sẽ có sự khác biệt giữa các quốc gia. Một số quốc gia khuyến cáo nên dành một khoảng thời gian khoảng 03 tháng hoặc 06 tháng sau khi nhiễm bệnh – dựa trên cơ sở kháng thể tự nhiên có thể kéo dài tối đa 06 tháng sau khi mắc bệnh. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình này là nguồn cung cấp vaccine ở các quốc gia là khác nhau, và có những quốc gia vẫn còn đang gặp tình trạng thiếu hụt vaccine nên thời gian tiêm có thể kéo dài hơn. Nhưng theo quan điểm khoa học và sinh học, chúng ta hoàn toàn có thể tiêm vaccine phòng ngừa ngay sau khi đã hoàn toàn bình phục.

Cho đến hiện tại, chúng ta chưa biết chắc chắn và chính xác khả năng các kháng thể trung hòa giúp bảo vệ chống lại nhiễm bệnh sẽ kéo dài trong khoảng thời gian bao lâu và hiệu quả của chúng duy trì như thế nào. Do đó, các chuyên gia không khuyến nghị làm xét nghiệm kháng thể cá nhân để xác định khả năng miễn dịch.

 

Hỏi: Có sự khác biệt giữa khả năng miễn dịch tự nhiên sau khi mắc bệnh và miễn dịch sau khi tiêm vaccine hay không?

Miễn dịch tự nhiên – hay miễn dịch được phát triển sau khi nhiễm bệnh một cách tự nhiên – là khác nhau ở mỗi người và rất khó dự đoán khả năng hiệu quả của nó. Ngược lại, vaccine là sản phẩm đã được tiêu chuẩn hóa về liều lượng kháng nguyên sử dụng, và điều này dựa trên nhiều thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu khoa học. Do vậy, nếu một người được tiêm vaccine, chúng ta có thể khá tự tin và dự đoán được khả năng miễn dịch cũng như loại phản ứng miễn dịch mà người đó đang có trong cơ thể - tất nhiên là ở phần lớn chứ không phải hoàn toàn những người được tiêm chủng. Đây chính là sự khác biệt chính giữa miễn dịch tự nhiên và miễn dịch bởi vaccine.

Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã và đang quan tâm đến một vấn đề rất thú vị, đó là xem xét phản ứng miễn dịch khi một người được tiêm một liều vaccine sau khi bị nhiễm bệnh tự nhiên và một người được tiêm hai loại vaccine khác nhau (tiêm trộn hay tiêm kết hợp). Những kết quả hiện tại mang đến những dấu hiệu tích cực, và các nhà khoa học tin rằng có lẽ phương pháp “lai” này thực sự mang lại phản ứng miễn dịch mạnh hơn nhiều so với khả năng miễn dịch tự nhiên hoặc khả năng miễn dịch nếu chỉ tiêm cùng một loại vaccine. Tuy nhiên, ý tưởng này vẫn cần thêm những nghiên cứu sâu hơn và cụ thể hơn nữa.

Hiện tại, tất cả các loại vaccine đang được cấp phép sử dụng bởi WHO đều mang đến khả năng ngăn ngừa tình trạng bệnh nặng và nhập viện do tất cả các biến thể hiện có của virus SARS-CoV-2. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa cá nhân như đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, giữ vệ sinh tay và tránh những nơi đông đúc và khép kín, cũng như các biện pháp xã hội và các biện pháp sức khỏe cộng đồng khác áp dụng tại các từng địa phương vẫn là rất cần thiết – vì vẫn còn rất nhiều người chưa được tiêm đầy đủ trên toàn cầu. Dù bạn sống ở đâu chăng nữa, nên thực hiện những biện pháp phòng ngừa bên cạnh việc tiêm chủng đầy đủ để giúp làm giảm tỷ lệ lây nhiễm trong cộng đồng.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tổn thương phổi vĩnh viễn hậu COVID-19 

Viện Y học ứng dụng Việt Nam (Tổng hợp) -
Bình luận
Tin mới
  • 04/12/2025

    Loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh

    Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!

  • 04/12/2025

    Ai không nên ăn thịt lợn nọng?

    Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.

  • 04/12/2025

    Sự thật về tóc bạc

    Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.

  • 03/12/2025

    Có nên dùng ‘đường ăn kiêng’ để giảm cân?

    Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?

  • 03/12/2025

    Viêm xoang trong mùa đông

    Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.

  • 02/12/2025

    Eswatini – Quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai mũi tiêm phòng HIV hai lần mỗi năm

    Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.

  • 02/12/2025

    4 lợi ích nổi bật nhất của rau càng cua với sức khỏe

    Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

  • 02/12/2025

    Các dấu hiệu nhận biết đột quỵ vào mùa đông

    Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.

Xem thêm