Gai cột sống thường gặp ở người tuổi từ 40 trở lên. Nam bị nhiều hơn nữ. Ở nam giới phần lớn là do lao động nặng. Tuy nhiên nữ giới ở tuổi mãn kinh cũng hay bị gai cột sống. Gai thường mọc ở mặt trước và bên của cột sống, hiếm khi mọc ở phía sau nên ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh. Gai thường xuất hiện ở đốt sống cổ và thắt lưng, vì hai bộ phận này hoạt động nhiều nhất, nên dẫn đến tình trạng khớp thoái hóa nhanh.
Gai cột sống có thể dẫn đến tàn phế
Nhiều người có gai xương chỉ tình cờ phát hiện ra khi chụp Xquang do đi khám một bệnh khác. Tuy nhiên, 40% những trường hợp gai có biểu hiện lâm sàng, khi gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như dây chằng, rễ dây thần kinh. Với người bị gai đốt sống cổ triệu chứng đầu tiên là đau cổ, đau vai gáy, nhức đầu, đau lan xuống tay thậm chí đến các ngón tay. Với người bị gai đốt sống thắt lưng thì đau thắt lưng, đau hông, đau có thể xuống chân theo kiểu đau thần kinh tọa. Đau làm hạn chế vận động cổ, vai, thắt lưng. Dần dần, cơ bắp yếu đi, đặc biệt là ở tay và chân. Bệnh nhân có dáng đi vẹo vọ hoặc lưng còng xuống. Một số ít các trường hợp, chèn ép thần kinh nặng gây bí tiểu, táo bón, đại tiểu tiện không tự chủ, bệnh nhân trở nên tàn phế, thậm chí có thể tử vong. Đó là biến chứng nặng cần phải được phát hiện và điều trị nhanh chóng.
Thoái hóa đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân hình thành gai xương cột sống.
Điều trị bằng cách nào?
Nếu có gai nhưng không gây đau thì không điều trị. Xu hướng điều trị của bệnh gai cột sống là điều trị bảo tồn, và sẽ cắt bỏ gai khi thật cần thiết. Cần phát hiện và điều trị là nguyên nhân gây ra gai cột sống. Đầu tiên, người bệnh phải nghỉ ngơi, tránh làm việc nặng, giảm áp lực lên các vùng bị đau. Có thể dùng nẹp cổ, đai lưng... để giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh. Bác sĩ sẽ cho dùng thuốc để khống chế đợt đau cấp của bệnh. Thường dùng các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm giãn cơ, tiêm cạnh cột sống bằng thuốc chống viêm steroid. Ngoài ra cần điều trị hỗ trợ giúp giảm đau và tăng vận động như mát-xa, châm cứu, vật lý trị liệu. Hồng ngoại, điện xung, điện dẫn thuốc, siêu âm dẫn thuốc thường có kết quả tốt. Sau khi bệnh nhân qua cơn đau cấp cần tập phục hồi chức năng vận động. Điều trị phẫu thuật là biện pháp cuối cùng khi người bệnh bị đau nghiêm trọng, mạn tính, có chèn ép vào tủy, chèn ép các rễ thần kinh ở cột sống gây nên rối loạn đại tiểu tiện, mất cảm giác, liệt.
Tránh những quan niệm sai lầm về điều trị gai cột sống
Khi được bác sĩ chẩn đoán gai cột sống, một số bệnh nhân thường nghĩ ngay đến việc mổ để cắt đi “cái gai” đáng ghét này. Nhưng thực tế không hề có chỉ định và không thể mổ cắt gai cột sống. Xu hướng điều trị gai cột sống là bảo tồn. Không phải cứ lấy gai đi là bệnh sẽ hết vĩnh viễn vì gai xương có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ, vì quá trình hình thành gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm. Khi mắc gai cột sống nhiều người có suy nghĩ không nên ăn thực phẩm giàu canxi để hạn chế sự phát triển thêm gai. Đây là quan điểm sai lầm, vì ăn đủ lượng canxi trong thực phẩm không ảnh hưởng đến bệnh, không làm gai mọc nhiều hơn. Hoặc một số người cho rằng nên ăn thêm muối để giúp cơ thể tái hấp thu một phần canxi vào máu. Trên thực tế lượng canxi trong máu được cơ thể kiểm soát rất chặt chẽ, không để tăng lên quá mức hoặc giảm quá mức. Bổ sung muối ăn không có tác dụng điều trị gai xương mà thậm chí có thể ảnh hưởng không tốt đến cơ thể, góp phần gây tăng huyết áp, phù, làm thận phải làm việc quá sức để thải lượng muối thừa ra khỏi cơ thể.
Bơi lội rất tốt đối với người bị thoái hóa đĩa đệm cột sống.
Phòng ngừa gai cột sống thế nào?
Trước tiên, bệnh nhân cần có chế độ dinh dưỡng đầy đủ canxi, vitamin D, C, K, E, muối khoáng đồng, kẽm mang gan, magie. Tăng cường ăn rau quả, hạn chế chất béo nhất là mỡ động vật. Không hút thuốc. Duy trì trọng lượng cơ thể vừa phải, tránh thừa cân béo phì. Tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là các động tác cử động vùng cột sống cổ và vùng cột sống thắt lưng, vận động các phần cột sống về tất cả các hướng. Buổi sáng tiến hành các bài tập thở khoảng 10-15 phút. Tránh hoặc hạn chế các tư thế lao động nguy hiểm, không mang vác nặng. Lao động hợp lý xen kẽ với nghỉ ngơi, dùng ghế ngồi có tựa lưng.
Để bảo vệ đôi môi, chúng ta thường sử dụng son dưỡng môi, giúp duy trì độ ẩm và ngăn ngừa tình trạng khô môi. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm thương mại chứa các chất hóa học, một số nguyên liệu tự nhiên có thể được tận dụng như các biện pháp khắc phục tại nhà an toàn và hiệu quả.
Bạn có thường xuyên quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen hay vị trí chìa khóa không? Trí nhớ suy giảm là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận nó.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Gừng thường được coi là nguyên liệu chính trong các phương pháp tự nhiên để giảm bớt các vấn đề về tiêu hóa. Mặc dù gừng là một lựa chọn tốt nhưng có một số loại thực phẩm khác có thể hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả hơn.
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.