Thuốc Molnupiravir
Thuốc Molnupiravir được FDA phê duyệt điều trị Covid-19 từ mức độ nhẹ đến trung bình ở người trưởng thành, với các đặc điểm như:
Molnupiravir không được phép sử dụng cho bệnh nhân dưới 18 tuổi vì có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của xương và sụn. Thuốc không được cấp phép để sử dụng cho việc phòng ngừa trước hoặc sau phơi nhiễm với COVID-19 - hoặc những bệnh nhân đã nhập viện điều trị (vì kết quả của việc điều trị bằng thuốc trên nhóm đối tượng bệnh nhân đã nhập viện và bắt đầu điều trị chưa được quan sát thấy).
Về phương thức hoạt động, Molnupiravir là một loại thuốc hoạt động bằng cách đưa các lỗi vào mã di truyền của virus SARS-CoV-2, giúp ngăn virus tái tạo thêm. Molnupiravir được dùng dưới dạng 4 viên nang có hàm lượng 200 miligam uống mỗi 12 giờ, trong 5 ngày, với tổng số 40 viên. Molnupiravir không được phép sử dụng lâu hơn 05 ngày liên tục.
Sự cho phép của FDA
Trích lời giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Đánh giá thuốc của FDA, việc cấp phép cho thuốc Molnupiravir mang đến thêm một lựa chọn điều trị bổ sung trong việc chống lại đại dịch, đặc biệt là dưới dạng một viên thuốc có thể uống được. Khi các biến thể virus mới vẫn tiếp tục xuất hiện, điều quan trọng là cần phải trang bị thêm các vũ khí mới hiệu quả, bằng cách cho phép sử dụng khẩn cấp đồng thời tiếp tục nghiên cứu về tính an toàn và hiệu quả của các loại thuốc hay các phương pháp mới. Một điểm lưu ý là thuốc Molnupiravir không thể thay thế cho việc tiêm vaccine ở những người được khuyến cáo tiêm hay thậm chí là mũi tiêm tăng cường. Hiện tại, FDA đã phê duyệt chấp thuận sử dụng 01 loại vaccine và phê duyệt cho phép một vài vaccine khác trong việc ngăn ngừa COVID-19. FDA kêu gọi người dân tiêm đủ mũi và tiêm mũi tăng cường nếu đủ điều kiện.
Việc ban hành giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA) khác với sự chấp thuận hoàn toàn. Khi xác định xem có ban hành EUA hay không, FDA đánh giá tổng thể các bằng chứng khoa học có sẵn và xem xét tính cân bằng một cách cẩn thận với mọi rủi ro đã biết hoặc tiềm ẩn/hay bất kỳ lợi ích tiềm ẩn hoặc đã biết nào của sản phẩm. Dựa trên đánh giá của FDA về tổng số bằng chứng khoa học hiện có, cơ quan này đã xác định rằng thuốc Molnupiravir có hiệu quả để điều trị COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình ở một số người trưởng thành, khi mà các lựa chọn điều trị khác (đã được FDA cho phép) không thể tiếp cận hoặc không phù hợp về mặt lâm sàng. FDA cũng đã xác định rằng những lợi ích đã biết và tiềm năng của Molnupiravir khi được sử dụng phù hợp với các điều kiện cho phép vượt trội hơn những rủi ro đã biết và rủi ro tiềm ẩn của sản phẩm.
Dữ liệu chính hỗ trợ cho FDA trong việc cấp EUA cho thuốc Molnupiravir là từ MOVe-OUT, một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược về thuốc để điều trị cho những bệnh nhân mắc COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình có nguy cơ cao tiến triển thành nặng nhưng không nhập viện, và / hoặc nhập viện. Theo đó, các bệnh nhân là người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên, với tình trạng bệnh mạn tính đã được xác định trước hoặc có nhiều nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 vì những lý do khác nên chưa được tiêm vaccine ngừa COVID-19. Kết quả chính được đo lường trong thử nghiệm là tỷ lệ phần trăm số người phải nhập viện hoặc tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào trong 29 ngày theo dõi. Theo đó, trong số 709 người được dùng thuốc Molnupiravir khi so với 699 người sử dụng giả dược, có:
Dựa trên những phát hiện từ các nghiên cứu về khả năng sinh sản ở động vật, thuốc Molnupiravir có thể gây hại cho thai nhi khi dùng cho phụ nữ mang thai. Vì vậy, thuốc không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai. Molnupiravir chỉ được phép kê đơn cho phụ nữ đang mang thai sau khi:
Tham khảo thêm thông tin tại: Hai thuốc kháng virus điều trị Covid-19 tại Việt Nam
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.