Thuốc lá
Hút thuốc lá gây ra rất nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư phổi, thực quản, thanh quản, miệng, họng, thận, bàng quang, tụy, dạ dày và cổ tử cung. Khoảng 70% gánh nặng ung thư phổi có thể là do hút thuốc. Hút thuốc thụ động, cũng được chứng minh gây ra ung thư phổi ở những người lớn không hút thuốc. Thuốc lá không khói (thường gọi là thuốc lá miệng, thuốc lá nhai hoặc thuốc lá hít) gây ra ung thư miệng, thực quản và tụy.
Ít hoạt động, chế độ ăn, béo phì và thừa cân.
Điều chỉnh chế độ ăn là một phương pháp quan trọng nữa của kiểm soát ung thư. Có một sự liên quan giữa thừa cân và béo phì đến nhiều loại ung thư như thực quản, đại trực tràng, vú, nội mạc tử cung và thận. Chế độ ăn giàu hoa quả và rau củ có thể có cách hiệu quả bảo vệ chống lại nhiều ung thư. Ngược lại, tiêu thụ quá mức thịt đỏ và thịt bảo quản sẽ đi kèm với gia tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Ngoài ra, thói quen ăn uống lành mạnh cũng sẽ ngăn ngừa sự phát triển của ung thư liên quan đến chế độ ăn cũng sẽ làm giảm nguy cơ các bệnh về tim mạch.
Hoạt động thể lực thường xuyên và duy trì cân nặng cơ thể khỏe mạnh, cùng với một chế độ ăn lành mạnh, sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư.
Các chính sách và chương trình quốc gia nên được ban hành để nâng cao nhận thức và làm giảm sự phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ ung thư, và để đảm bảo rằng người dân được cung cấp thông tin và sự hỗ trợ họ cần để thích nghi với phong cách sống lành mạnh.
Uống rượu
Sử dụng rượu là một yếu tố nguy cơ của rất nhiều loại ung thư bao gồm ung thư khoang miệng, vòm họng, thanh quản, thực quản, gan, đại trực tràng và vú. Nguy cơ ung thư gia tăng với tổng lượng rượu tiêu thụ. Nguy cơ từ việc uống nhiều đối với vài loại ung thư (khoang miệng, vòm họng, thanh quản và thực quản) gia tăng đáng kể nếu người đó nghiện thuốc.
Sự phân bố cũng khác nhau giữa nam giới và nữ giới cho một số loại ung thư nhất định liên quan đến rượu, chủ yếu là do sự khác nhau về lượng rượu họ uống. Ví dụ, 22% ung thư miệng và họng hầu ở nam giới là có thể do rượu trong khi đó ở nữ giới giảm xuống 9%. Sự khác nhau về giới tính tương tự cũng tồn tại trong ung thư thực quản và ung thư gan.
Nhiễm trùng
Các tác nhân gây nhiễm trùng cũng là nguyên nhân cho hầu hết 22% số người chết vì ung thư ở một thế giới đang phát triển và 6% ở những nước công nghiệp hóa. Virus viêm gan B và C gây ra ung thư gan, nhiễm virus gây u nhú ở người gây ra ung thư cổ tử cung, vi khuẩn Helicobacter pylori làm gia tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Ở một số nước, nhiễm kí sinh trùng sán máng làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang và ở các nước khác, sán lá gan làm tăng nguy cơ ung thư đường dẫn mật. Các biện pháp ngăn ngừa bao gồm tiêm vaccin, ngăn ngừa nhiễm trùng.
Ô nhiễm môi trường
Ở Băng- la- đét, 5-10% số người chết vì ung thư trong vùng nhiễm asen là do phơi nhiễm với asen (Smith, Lingas & Rahman, 2000). Phơi nhiễm với các chất gây ung thư có thể xảy ra qua ô nhiễm thức ăn bởi hóa chất, như là aflatoxin hoặc dioxin. Ô nhiễm không khí trong nhà từ than đá làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt giữa những phụ nữ không hút thuốc (Smith, Mehta & Feuz, 2004)
Trên toàn thế giới, ô nhiễm không khí trong nhà từ đốt than đá nội địa là nguyên nhân cho xấp xỉ 1,5% trong tất cả số người chết vì ung thư phổi. Sử dụng than đá trong nhà đặc biệt rộng rãi ở châu Á.
Chất sinh ung thư liên quan đến nghề nghiệp.
Hơn 40 tác nhân, các hỗn hợp và các tình huống phơi nhiễm ở môi trường làm việc là nguy cơ sinh ung thư với con người và được phân loại như là chất sinh ung thư nghề nghiệp (Siemiatycki et al. 2004). Các chất sinh ung thư nghề nghiệp đó thường liên quan đến ung thư phổi, bàng quang, thanh quản, da, ung thư máu và mũi hầu. U trung biểu mô (ung thư lớp phủ ngoài của phổi hoặc khoang ngực) là một ung thư lớn gây ra bởi phơi nhiễm với amiang.
Ung thư liên quan đến nghề nghiệp tập trung ở những nhóm đặc thù của dân số trong độ tuổi lao động, ở những người mà nguy cơ của việc phát triển một dạng đặc biệt của ung thư, có thể cao hơn nhiều so với nhóm dân số thông thường. Khoảng 20-30% nam giới và 5-20% nữ giới trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) có thể phơi nhiễm với tác nhân sinh ung thư phổi trong suốt cuộc đời làm việc của họ, chiếm khoảng 10% số ung thư phổi trên toàn thế giới. Khoảng 2% ung thư máu trên toàn thế giới là do phơi nhiễm nghề nghiệp.
Bức xạ
Bức xạ ion hóa là tác nhân sinh ung thư với con người. Kiến thức về nguy cơ bức xạ chủ yếu lấy từ những nghiên cứu bệnh dịch học của những người Nhật Bản sống sót sau vụ nổ bom nguyên tử cũng như là từ nghiên cứu của nhóm người phơi nhiễm với phóng xạ nghề nghiệp và y tế. Bức xạ ion hóa có thể gây ra ung thư máu và một số khối u rắn, với nguy cơ cao hơn phơi nhiễm khi còn trẻ.
Phơi nhiễm tại nhà ở với khí Radon từ đất và vật liệu xây dựng được ước tính gây ra 3-14% ung thư phổi, khiến cho nó là nguyên nhân thứ 2 gây ung thư phổi sau khói thuốc lá. Tỉ lệ Radon trong nhà có thể giảm bằng việc cải thiện hệ thống thông gió và bịt kín sàn nhà và tường. Bức xạ ion hóa là một công cụ chữa bệnh và chẩn đoán cần thiết. Để đảm bảo rằng lợi ích nhiều hơn là nguy cơ bức xạ tiềm ẩn, các liệu pháp y học bức xạ nên được kê phù hợp và thực hiện một cách chính xác, để làm giảm liều bức xạ không cần thiết, đặc biệt ở trẻ nhỏ.
Bức xạ tia cực tím (tia UV), và đặc biệt ở bức xạ mặt trời, là tác nhân sinh ung thư với con người, gây ra tất cả các loại lớn của ung thư da, như là ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tế bào vảy, u biểu mô hắc tố. Trên toàn thế giới năm 2000, hơn 200.000 trường hợp u hắc tố được chẩn đoán và có 65.000 người chết có u hắc tố đi kèm. Tránh phơi nhiễm quá mức, sử dụng kem chống nắng và quần áo bảo vệ là những biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu. Thiết bị phát tia UV để nhuộm da ngày nay cũng được xếp vào tác nhân gây ung thư cho người dựa trên sự liên quan với ung thư biểu mô hắc tố da và mắt.
Mất nước là tình trạng cơ thể không có đủ chất lỏng để hoạt động bình thường. Vào mùa hè, nguy cơ mất nước thường phổ biến hơn.
Mùa hè với nền nhiệt cao kéo dài và độ ẩm tăng mạnh không chỉ gây khó chịu trong sinh hoạt hàng ngày mà còn ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng giấc ngủ. Cảm giác oi bức khiến việc chìm vào giấc ngủ trở nên khó khăn và thường xuyên bị gián đoạn trong đêm.
Cà phê từ lâu đã trở thành thức uống quen thuộc của hàng triệu người mỗi sáng. Tuy nhiên, uống bao nhiêu là đủ để tốt cho sức khỏe và khi nào thì trở thành quá nhiều?
Khi nước kiềm ngày càng phổ biến, các tuyên bố xung quanh lợi ích sức khỏe và khả năng cải thiện sức khỏe tổng thể của nó cũng tăng theo. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xem xét kỹ lưỡng những khẳng định này. Vì vậy, hãy cùng tìm hiểu và khám phá sự thật về nước kiềm và những lợi ích thật sự của nước kiềm.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Chế độ ăn uống lành mạnh không thể thiếu thực phẩm giàu creatine - hợp chất tự nhiên giúp cung cấp năng lượng cho cơ bắp, cải thiện hiệu suất tập luyện và sức khỏe não bộ.
Có rất nhiều loại bệnh võng mạc khác nhau. Những bệnh này có thể do gen di truyền từ cha mẹ hoặc từ tổn thương võng mạc tích lũy trong suốt cuộc đời. Một số loại bệnh võng mạc phổ biến hơn các bệnh khác.
Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?