Không chỉ giúp trẻ hấp thu dinh dưỡng hiệu quả, răng sữa còn hỗ trợ trong quá trình tập nói, tập phát âm cũng như quá trình hình thành nên cá tính của trẻ. Mặt khác, răng sữa còn có vai trò giữ khoảng, định hướng cho răng vĩnh viễn mọc đúng vị trí. Do vậy, cha mẹ cần quan tâm chăm sóc để trẻ có một hàm răng sữa khỏe mạnh.
Mầm răng sữa bắt đầu hình thành khi trẻ còn ở trong bụng mẹ. Vào thời điểm trẻ ra đời thì tất cả mầm răng sữa đều đã hình thành và nằm bên dưới lợi. Trong 3 tháng cuối của thai kỳ, người mẹ cần chú ý đến việc bổ sung thêm chất khoáng giúp hỗ trợ quá trình khoáng hóa mầm răng sữa của con. Để tăng cường chất khoáng, người mẹ nên tăng cường tiêu thụ các loại đồ ăn, thức uống giàu canxi như thịt, cá, trứng và sữa. Phụ nữ mang thai cũng nên giữ gìn vệ sinh răng miệng và đi khám răng trong giai đoạn thai kỳ. Dinh dưỡng hợp lý và vệ sinh răng miệng tốt đảm bảo một hàm răng khỏe mạnh cho cả mẹ và bé trong tương lai.
Chiếc răng sữa đầu tiên mọc lên khi trẻ khoảng từ 6-9 tháng tuổi. Đến tầm 3 tuổi thì hầu hết toàn bộ hàm răng sữa bao gồm 20 chiếc răng đã xuất hiện đầy đủ trong khoang miệng. Khi những chiếc răng mọc, lợi sẽ nứt ra để răng nhú lên, điều này thường khiến trẻ khó chịu và hay đưa tay lên miệng để mút. Cha mẹ có thể mua dụng cụ gặm nướu bằng silicon cho trẻ gặm, giúp trẻ giảm khó chịu trong thời kỳ răng mọc. Ngoài ra, phụ huynh có thể sử dụng gel bôi lợi mua ở hiệu thuốc bôi trực tiếp lên vùng răng mọc để giảm đau và giảm viêm.
Dinh dưỡng chính cho trẻ dưới 6 tháng tuổi đến từ sữa mẹ. Nên cho trẻ bú trực tiếp, nếu không có điều kiện có thể vắt sữa ra bình cho trẻ nhưng không nên cho trẻ ôm bình sữa đi ngủ. Khi trẻ đã bú xong, cần lấy bình ra và làm sạch. Việc trẻ ngậm ti hoặc ngậm bình sữa trong lúc ngủ không chỉ tăng nguy cơ bị sâu răng mà còn có thể bị sặc và tiềm ẩn nguy cơ bị viêm tai giữa. Vì vậy, luôn bế trẻ khi cho trẻ bú bình chứ không nên đặt trẻ trong cũi và không có sự giám sát của người lớn. Từ 6-12 tháng, trẻ có thể bắt đầu chuyển từ bú bình sang bú bằng cốc và sau 1 tuổi, trẻ chỉ nên uống sữa từ cốc. Nên nhớ rằng cầm cốc và uống từ cốc là một kỹ năng quan trọng cần thiết phải dạy cho trẻ.
Nước hoa quả và đồ uống có đường có thể gây sâu răng vì trong nước quả cũng có một hàm lượng đường tự nhiên nhất định. Đồ uống có đường bao gồm các loại nước ngọt đóng chai, nước tăng lực, nước quả đóng hộp... Đồ uống có ga có chứa acid có thể làm hỏng men răng. Trẻ dưới 12 tháng tuổi không cần bổ sung nước quả và các thức uống có đường. Ngược lại, các loại sữa không đường và nước trắng là thức uống dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ. Nước máy đun sôi còn có hàm lượng fluoride nhất định giúp tăng cường khoáng hóa men răng mà các loại nước khoáng đóng chai không có.
Từ 6 tháng tuổi trở đi, có thể cho trẻ tập nhai thức ăn thô. Trẻ từ 12 tháng tuổi có thể cho tập ngồi ăn cùng gia đình và thử các loại thực phẩm lành mạnh và đa dạng. Trẻ có thể tập ăn bằng việc quan sát cha mẹ và các thành viên trong gia đình khi ăn. Trẻ em bẩm sinh không hứng thú với đồ ngọt mà thói quen này được hình thành khi trẻ được cha mẹ hoặc người chăm sóc cho sử dụng các loại đồ ăn, đồ uống có chứa đường. Tiêu thụ các loại thực phẩm có hàm lượng đường cao là nguyên nhân chính gây sâu răng.
Lau răng và chải răng có tác dụng loại bỏ mảng bám trên bề mặt răng (là nguyên nhân gây sâu răng). Cha mẹ có thể sử dụng vải mềm hoặc bàn chải nhỏ với đầu lông chải mềm và nước sạch để làm sạch răng cho bé. Việc vệ sinh răng miệng cần bắt đầu ngay khi chiếc răng đầu tiên mọc lên. Đến tầm 18 tháng tuổi, trẻ có thể bắt đầu sử dụng kem đánh răng với một lượng nhỏ chừng một hạt đậu. Nên khuyến khích trẻ nhổ bỏ kem đánh răng thừa sau khi chải răng nhưng không cần súc miệng lại. Việc chải răng và lợi cần được tiến hành 2 lần/ngày vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng sau khi ăn sáng. Trẻ dưới 3 tuổi khi chải răng cần có sự giúp đỡ của cha mẹ, trẻ tự chải răng thì phụ huynh cần phải kiểm tra lại, nếu chưa sạch thì cha mẹ nên chải lại răng cho con.
Cha mẹ cần lựa chọn bàn chải đánh răng có kích cỡ phù hợp với lứa tuổi và hàm răng của trẻ, có màu sắc vui nhộn hoặc trang trí bằng các nhân vật hoạt hình. Đầu lông bàn chải mềm để trẻ có thể chải cả lợi. Kem đánh răng cho trẻ dưới 6 tuổi cần chú ý hàm lượng fluoride, thông thường từ 500ppm và không vượt quá 1.000ppm.
Bắt đầu từ 2 tuổi, trẻ cần được đi khám răng để phát hiện các lỗ sâu sớm và điều trị kịp thời. Khám răng định kỳ không chỉ giúp phòng ngừa sâu răng mà còn có thể giúp phát hiện các thói quen xấu như mút ngón tay, mút má, đẩy lưỡi hay thở miệng để điều chỉnh.
Cha mẹ được khuyến khích kiểm tra răng miệng trẻ thường xuyên. Chỉ cần vén môi lên và quan sát nếu có các điểm trắng đục trên bề mặt răng, đặc biệt ở răng hàm trên thì đó chính là chỉ điểm của sâu răng sớm. Lúc này, cha mẹ nên cho con đến phòng khám răng để được tư vấn và điều trị.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Tìm hiểu chăm sóc răng miệng cho trẻ em
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?