Viêm cầu thận mạn
Vì sao bị viêm cầu thận mạn?
Các nguyên nhân có thể dẫn đến viêm cầu thận mạn là: sau đợt viêm cầu thận cấp, sau viêm cầu thận có hội chứng thận hư, sau khi mắc các bệnh hệ thống như luput hoặc đái tháo đường; sau các bệnh di truyền như hội chứng Alport. Tuy vậy, cũng có nhiều trường hợp không rõ nguyên nhân khởi đầu, bệnh nhân đến khám trong tình trạng viêm cầu thận mạn rõ, thậm chí đã là giai đoạn muộn mà không thấy có tiền sử bệnh viêm cầu thận.
Tùy giai đoạn bệnh mà tổn thương có thể là: viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa, viêm cầu thận màng, viêm cầu thận màng tăng sinh, viêm cầu thận ổ, mảnh, xơ hóa cầu thận ổ, viêm cầu thận IgA trong bệnh Berger...
Dấu hiệu nhận dạng bệnh
Một bệnh nhân bị viêm cầu thận mạn tính có thể xuất hiện các dấu hiệu như: nước tiểu màu sẫm, màu váng sắt hay nước tiểu màu nâu do có máu trong nước tiểu, nước tiểu có bọt. Phù nhẹ, trung bình hoặc nặng, tái phát nhiều lần. Đái ít, lượng nước tiểu thay đổi tùy từng bệnh nhân và giai đoạn bệnh. Viêm cầu thận mạn ở giai đoạn càng tiến triển thì tình trạng thiểu niệu càng rõ. Tăng huyết áp: ở giai đoạn chưa có suy thận hoặc suy thận nhẹ, tỷ lệ bệnh nhân tăng huyết áp thấp.
Nhưng khi suy thận giai đoạn III, IV, tỷ lệ bệnh nhân có tăng huyết áp trên 80%. Thiếu máu: khi chưa có suy thận, không có thiếu máu hoặc chỉ thiếu máu nhẹ, nhưng khi có suy thận, thiếu máu xuất hiện và ngày càng nặng dần, đôi khi liên quan chặt chẽ với các giai đoạn suy thận. Các triệu chứng biểu hiện hội chứng urê máu cao: khi đã có suy thận như nôn, rối loạn tiêu hóa, xuất huyết, các biểu hiện tim mạch, thần kinh, toan máu gây thở sâu, rối loạn nhịp thở và nặng nhất là hôn mê do urê máu cao. Khi bệnh tiến triển từ từ có thể bao gồm các biểu hiện: sút cân, nôn và buồn nôn, mệt mỏi, đau đầu, ngứa, đi tiểu nhiều vào ban đêm, hay bị co giật cơ bắp, chuột rút, chảy máu cam…
Protein niệu, khi protein niệu trên 3,5g/24giờ là có hội chứng thận hư đi kèm. Nhưng khi suy thận đã đến giai đoạn nặng thì protein niệu thường dưới 1g/24giờ. Hồng cầu niệu, đái máu vi thể, ít khi có đái máu đại thể. Nếu có đái máu đại thể tái phát nhiều lần thì thường là biểu hiện của bệnh cầu thận IgA. Trụ niệu gồm trụ hồng cầu, trụ hạt nhưng không phải trụ niệu lúc nào cũng có. Urê, creatinin, acid uric máu tăng, mức lọc cầu thận giảm khi có suy thận. K+ máu thường tăng khi có suy thận. Ca++ máu giảm ở suy thận cuối giai đoạn II trở đi. Na+ máu thường giảm do phù và ăn nhạt. Hồng cầu, huyết sắc tố giảm khi có suy thận. Siêu âm thấy kích thước thận bình thường khi chưa có suy thận, thận teo nhỏ đều 2 bên khi có suy thận. Xquang thấy bóng thận teo nhỏ, đều ở hai bên ở giai đoạn đã suy thận.
Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng phù, tái phát nhiều lần, đái ít, tăng huyết áp, thiếu máu, protein niệu, hồng cầu niệu, trụ hạt, trụ hồng cầu, urê, creatinin máu, acid uric máu tăng, mức lọc cầu thận giảm. Siêu âm, Xquang thận: hai thận teo nhỏ đều.
Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh: xơ mạch thận lành tính tăng huyết áp xuất hiện trước các triệu chứng khác, protein niệu thường dưới 1g/24giờ.
Xơ mạch thận ác tính (tăng huyết áp ác tính): huyết áp rất cao, khó đáp ứng với điều trị, nhiều biến chứng phù tạng, có thể có suy thận cấp tiến triển nặng nhanh trong một thời gian ngắn. Viêm thận bể thận mạn tính: bệnh nhân thường có tiền sử nhiễm khuẩn, viêm thận bể thận cấp, sỏi thận… Bệnh không có phù trong một thời gian dài, trừ khi có suy thận mạn tính nặng. Protein niệu thấp, ít khi quá 1g/24giờ, bạch cầu niệu nhiều, vi khuẩn niệu (+)…
Phòng và điều trị viêm cầu thận mạn
Chữa trị và phòng bệnh
Đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị triệu chứng tùy theo từng giai đoạn của bệnh.
Giai đoạn viêm cầu thận mạn chưa có suy thận: viêm cầu thận mạn không có triệu chứng lâm sàng thì chỉ cần theo dõi định kỳ. Nếu có triệu chứng lâm sàng thì chủ yếu là điều trị triệu chứng: điều trị phù như ăn nhạt, hạn chế lượng nước uống,
Dùng thuốc lợi tiểu furosemid từ liều thấp 40mgx1viên/24giờ đến liều cao hơn nhằm đạt được lượng nước tiểu như mong muốn 1,5 - 1,8lít/24giờ. Điều trị tăng huyết áp: thuốc hạ huyết áp, các nhóm thuốc đều dùng được. Khi có suy tim, không dùng thuốc chẹn bêta giao cảm. Có thể dùng một trong các thuốc: nifedipin, amlor, renitec, logimax, coversyl… Nếu bệnh nhân đáp ứng tốt với nhóm ức chế men chuyển (renitec, coversyl) có thể giúp bảo vệ nhu mô thận lâu dài. Cần dùng thuốc thường xuyên, theo dõi định kỳ về lâm sàng và chức năng thận.
Trường hợp bệnh nhân viêm cầu thận có hội chứng thận hư thì cùng với việc điều trị triệu chứng, cần điều trị hội chứng thận hư như corticoid, cyclophosphamid… Nếu có nhiễm khuẩn, cần điều trị kháng sinh loại không độc thận kết hợp một đợt từ 7 - 10 ngày. Điều trị nguyên nhân như bệnh luput, đái tháo đường…
Giai đoạn viêm cầu thận mạn, suy thận mạn: ngoài việc điều trị triệu chứng cần điều trị suy thận mạn tùy thuộc vào giai đoạn suy thận. Điều trị bảo tồn với suy thận từ giai đoạn I đến giai đoạn II hoặc điều trị thay thế thận suy ở giai đoạn suy thận giai đoạn cuối.
Phòng bệnh, hiện nay vẫn chưa có cách ngăn chặn đặc biệt nào dành cho phần lớn các ca viêm cầu thận mạn. Một số trường hợp có thể được ngăn chặn bằng cách tránh hay hạn chế tiếp xúc với các dung môi hữu cơ, thủy ngân hay các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid.
Mùa hè mang theo những ngày nắng kéo dài, không khí oi bức và nền nhiệt độ cao, tạo nên nhiều thách thức đối với sức khỏe con người. Một trong những ảnh hưởng phổ biến nhưng ít được chú ý là tình trạng đau đầu do nóng.
Chất béo là một trong ba nhóm dưỡng chất thiết yếu, cùng với carbohydrate và protein, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể con người.
Mùa hè đến, cái nắng gay gắt không chỉ khiến cơ thể mệt mỏi mà còn tiềm ẩn những mối nguy hiểm khôn lường đối với sức khỏe, trong đó đột quỵ nhiệt là một trong những tình trạng đáng lo ngại nhất.
Cá cơm là một nguồn dinh dưỡng ấn tượng, mang lại những lợi ích sức khỏe đáng ngạc nhiên.
Kháng sinh (hay thuốc kháng sinh) đóng vai trò then chốt trong y học hiện đại, giúp điều trị hiệu quả các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.
Chất béo thường bị hiểu lầm là “kẻ thù” của sức khỏe, đặc biệt là đối với tim mạch và cân nặng. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả chất béo đều có hại. Ngược lại, một số loại chất béo tốt lại đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì năng lượng, hấp thụ vitamin và bảo vệ cơ thể khỏi viêm nhiễm. Trong đó, dầu ăn có nguồn gốc thực vật như dầu ô liu, dầu bơ, dầu mè... không chỉ mang lại hương vị phong phú cho món ăn mà còn cung cấp các acid béo có lợi cho tim mạch, não bộ và hệ miễn dịch.
Mùa hè với những ngày nắng gay gắt không chỉ mang đến niềm vui của những chuyến đi chơi mà còn ẩn chứa nguy cơ sức khỏe mà ít ai để ý: cảm nắng. Đây là một tình trạng nghiêm trọng xảy ra khi cơ thể không thể tự điều hòa nhiệt độ trong môi trường nóng bức, dẫn đến những hậu quả khôn lường nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời.
Gan đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe tổng thể. Lựa chọn đúng loại thực phẩm cũng như tránh những chất có hại góp phần bảo vệ chức năng gan khỏe mạnh.