Ngoài những biện pháp này, FDA đã phê duyệt một số phương pháp điều trị được sử dụng cho những người nhiễm COVID-19 nhập viện và các loại thuốc khác để hạn chế sự phát triển COVID-19 ở những người không phải nhập viện nhưng có nguy cơ phát triển bệnh nặng. Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để phát triển các biện pháp điều trị khác hiệu quả hơn.
Những liệu pháp điều trị nào có thể giúp ích với những người nhiễm COVID-19 nặng trước khi nhập viện?
Vào tháng 11 năm 2020, FDA đã cấp phép sử dụng khẩn cấp cho 2 phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng là bamlanivimab do Eli Lily sản xuất và kết hợp casirivimab và imdevimab do Regeneron sản xuất. Cả 2 phương pháp này đã được chấp nhận sử dụng cho người trưởng thành và trẻ em trên 12 tuổi nhiễm COVID-19 nhẹ và vừa, không nhập viện nhưng có nguy cơ phát triển COVID-19 nặng hoặc có nguy cơ phải nhập viện. Ở những bệnh nhân này, các phương pháp điều trị được cấp phép sử dụng có thể làm giảm nguy cơ nhập viện và số lần cấp cứu. Hai phương pháp này đều cần phải được truyền tĩnh mạch sau khi phát triển các triệu chứng COVID-19.
Nếu bạn đang hồi phục tại nhà, có thể áp dụng thêm các biện pháp sau đây:
Những loại thuốc bác sĩ có thể sử dụng cho người nhiễm COVID-19 phải nhập viện?
Dexamethasone
Rất nhiều bác sĩ, bao gồm cả các bác sĩ tại Mỹ đã điều trị cho các bệnh nhận COVID-19 rất nặng bằng corticosteroid từ khi đại dịch mới diễn ra. Việc điều trị này là có ý nghĩa với những bệnh nhân đã phát triển phản ứng siêu miễn dịch (cơn bão cytokine) với việc nhiễm virus. Trong những trường hợp này, chính phản ứng quá mức của hệ thống miễn dịch sẽ làm tổn thương phổi và các cơ quan khác và dẫn đến tử vong.
Dexamethasone và các loại thuốc corticosteroid khác (như prednisone, methylprednisolone) là những loại thuốc chống viêm rất mạnh nhưng lại rất sẵn có và có giá thành không quá cao.
Theo hướng dẫn điều trị COVID-19 tại Anh, khuyến cáo sử dụng dexamethasone với một số bệnh nhân nhập viện nhiễm COVID-19 nặng. Khuyến cáo này dựa trên kết quả của thử nghiệm RECOVERY. Trong thử nghiệm này, hơn 6000 bệnh nhân nhiễm COVID-19 nhập viện sẽ được ngẫu nhiên điều trị bằng dexamethasone hoặc phương pháp điều trị tiêu chuẩn. Những bệnh nhân cần thở oxy hoặc sử dụng máy thở được điều trị bằng dexamethasone giảm được nguy cơ tử vong trong vòng 28 ngày so với những người nhận điều trị tiêu chuẩn. Dexamethasone không có lợi ích gì ở những người bệnh nhẹ, không cần hỗ trợ hô hấp.
Tocilizumab
FDA cũng đã cấp phép sử dụng khẩn cấp với tocilizumab (Actemra) để điều trị người trưởng thành, người cao tuổi và trẻ em trên 2 tuổi nhập viện và phải sử dụng corticosteroid hệ thống như dexamethasone và những người cần phải thở oxy, thở máy hoặc bắc cầu tim phổi hay còn gọi là ECMO. Tocilizumab là một kháng thể đơn dòng, đã được FDA chấp nhận sử dụng để điều trị nhiều bệnh miễn dịch.
Một số người bệnh COVID sẽ bị nặng hơn do phản ứng miễn dịch quá mức của cơ thể với tình trạng nhiễm virus (cơn bão cytokine). Khi tình trạng này xảy ra, cơ thể sẽ sản xuất quá mức IL-6, một loại protein tham gia vào quá trình gây viêm ở các tế bào phổi. Tocilizumab sẽ ngăn chặn hoạt động của các yếu tố IL-6, do đó là, giảm phản ứng quá mức của hệ thống miễn dịch.
Khuyến cáo này của FDA dựa trên bằng chứng từ 4 thử nghiêm lâm sàng trên những bệnh nhân nhiễm COVID-19 nhập viên, so sánh việc sử dụng tocilizumab cùng với việc chăm sóc thường quy với người bệnh COVID-19 (bao gồm cả việc sử dụng corticosteroid) với việc chỉ chăm sóc thông thường. Sau 28 ngày theo dõi, tocilizumab kết hợp với chăm sóc thường quy sẽ làm giảm nguy cơ tử vong và nguy cơ sử dụng máy thở, đồng thời làm giảm thời gian nằm viện của người bệnh, so sánh với việc chỉ chăm sóc thông thường. Tocilizumab không được cấp phép sử dụng ở người bệnh COVID-19 không phải nhập viện.
Remdesivir
Vào tháng 10 năm 2020, FDA đã cấp phép sử dụng thuốc kháng virus remdesivir để điều trị COVID-19. Thuốc có thể được sử dụng để điều trị cho người trưởng thành và trẻ em trên 12 tuổi, có cân nặng ít nhất là 40kg và phải nhập viện vì COVID-19. Các thử nghiệm lâm sàng gợi ý rằng ở những người bệnh này, remdesivir có thể đẩy nhanh thời gian hồi phục của bệnh nhân ở mức độ vừa phải
Baricitinib phối hợp với remdesivir
Vào tháng 11 năm 2020, FDA cũng đã cấp phép sử dụng khẩn cấp đối với việc sử dụng Baricitinib phối hợp với remdesivir ở người trưởng thành, người cao tuổi và trẻ em trên 2 tuổi nhập viện và cần thở máy. Tuy nhiên, chưa có đủ bằng chứng về việc ủng hộ sử dụng liệu pháp này thay vì sử dụng dexamethasone cùng với remdesivir hoặc không.
Thuốc chống đông máu
Gần như tất cả bệnh nhân nhập viện do COVID-19 đều cần được sử dụng thuốc để dự phòng hình thành cục máu đông. Các bác sĩ thường sẽ kê heparin liều thấp hoặc enoxaparin. Tuy nhiên, một số bệnh nhân sẽ cần sử dụng đủ liều thuốc chống đông nếu người bệnh đã từng bị đông máu hoặc có nguy cơ hình thành cục máu đông. Bác sĩ sẽ cân đối giữa nguy cơ của việc chảy máu để kê liều thuốc phù hợp.
Các kháng thể đơn dòng có thể giúp điều trị COVID-19 được không?
Sử dụng kháng thể đơn dòng để điều trị COVID-19 đã được cấp phép sử dụng khẩn cấp bởi FDA. Phương pháp này có thể được sử dụng để điều trị người trưởng thành và trẻ em trên 12 tuổi không phải nhập viện, có triệu chứng từ nhẹ đến vừa và dương tính với COVID-19 và những người có nguy cơ bệnh COVID-19 sẽ tiến triển nặng. Trong số đó bao gồm cả những người trên 65 tuổi, những người bị béo phì và những người mắc bệnh mạn tính. Các nghiên cứu mới đây gợi ý rằng điều trị bằng kháng thể đơn dòng có thể giúp cứu sống một nhóm các bệnh nhân nhập viện vì COVID-19.
Các kháng thể đơn dòng là phiên bản nhân tạo của các kháng thể mà cơ thể sản xuất ra một cách tự nhiên để chống lại các tác nhân lạ xâm nhập, ví dụ như virus SARS – CoV-2. Ba biện pháp được FDA chấp nhận sử dụng đều tấn công protein spike của corona virus, khiến virus khó bám dính và tấn công vào các tế bào của con người hơn.
Ba biện pháp điều trị kháng thể đơn dòng đã được FDA cấp phép sử dụng bao gồm: phối hợp casirivimab và imdevimab được gọi là REGN-COV do Regeneron sản xuất, phối hợp bamlanivimab và etesevimab do Eli Lilly sản xuất và sotrovimab do GlaxoSmithKline sản xuất. Những biện pháp điều trị này cần được truyền tĩnh mạch tại các phòng khám hoặc bệnh viện. Những biện pháp điều trị này không được sử dụng cho bệnh nhân COVID-19 đang nằm viện hoặc những người đang thở máy.
Tuy nhiên, một nghiên cứu xuất bản tháng 6 năm 2021 chỉ ra rằng sử dụng kháng thể đơn dòng đối với bệnh nhân COVID-19 nhập viên không có đáp ứng miễn dịch tự thân là rất hứa hẹn. Nghiên cứu này so sánh kháng thể đơn dòng của Regeneron với chăm sóc thường quy so với việc chăm sóc thường quy ở bệnh nhân nhập viện vì COVID-19. Ở những người mà cơ thể không thể tự tạo ra kháng thể chống COVID-19, điều trị bằng kháng thể đơn dòng giúp làm giảm nguy cơ tử vong 20%. Kháng thể đơn dòng không có lợi đối với những người bệnh mà cơ thể đã tạo ra kháng thể để chống lại virus.
Kháng thể đơn dòng có thể được sử dụng phối hợp với corticosteroid như dexamethasone để làm giảm đáp ứng miễn dịch ở người bệnh nhập viện có xuất hiện cơn bão cytokine.
Sử dụng huyết tương dưỡng bệnh
Khi những người đã nhiễm COVID-19 hồi phục, máu của họ sẽ có chứa kháng thể mà cơ thể tạo ra để chống lại corona virus và giúp họ khỏe hơn. Kháng thể này sẽ có mặt trong huyết tương, một thành phần của máu.
Huyết tương dưỡng bệnh, về cơ bản là sử dụng huyết tương từ những bệnh nhân đã khỏi bệnh, là phương pháp đã được sử dụng từ hơn 100 năm nay để điều trị nhiều tình trạng bệnh khác nhau, từ sởi, đậu mùa, thủy đậu cho đến bệnh SARS. Phương pháp này được cho là an toàn.
Vào tháng 8 năm 2020, FDA đã cấp phép sử dụng khẩn cấp cho việc sử dụng huyết tương dưỡng bệnh ở người bệnh nhiễm COVID-19 phải nhập viện. Một nghiên cứu nhỏ nhưng có thiết kế chặt chẽ được xuất bản trên tạp chí New England Journal of Medicine tháng 1 năm 2021 trên những bệnh nhân >65 tuổi và các tác giả đã sàng lọc lượng huyết tương dưỡng bệnh có chứa lượng kháng thể cao. Các tác giả chỉ ra rằng những người bệnh được nhận huyết tương dưỡng bệnh trong vòng 3 ngày sau khi có triệu chứng sẽ giảm 48% nguy cơ phát triển bệnh theo hướng nặng lên so sánh với những người sử dụng giả dược. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác xuất bản trên JAMA trên 1060 người nhiễm COVID-19 được sử dụng huyết tương dưỡng bệnh, giả dược hoặc điều trị tiêu chuẩn. So sánh với 2 nhóm còn lại, nhóm sử dụng huyết tương dưỡng bệnh không cải thiện nguy cơ tử vong, thời gian nằm viện hoặc nhu cầu thở máy.
Ai có thể hiến huyết tương để hỗ trợ điều trị COVID-19?
Để hiến được huyết tương, người bệnh cần đảm bảo nhiều tiêu chuẩn: họ cần phải đã được xét nghiệm dương tính với COVID-19, đã hồi phục, không có triệu chứng trong vòng 14 ngày vừa qua, gần đây âm tính với COVID-19 và có hàm lượng kháng thể đủ lớn trong huyết tương. Người cho và người nhận cũng cần có nhóm máu tương đồng, người cho cũng cần được tiến hành các xét nghiệm về máu khác, ví dụ như xét nghiệm HIV để đảm bảo an toàn. Một người hiến tặng có thể sản xuất đủ huyết tương giúp điều trị 3 bệnh nhân. Hiến tặng huyết tương không làm suy giảm hệ miễn dịch của người hiến và cũng không làm người hiến dễ bị nhiễm lại virus trong tương lai.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tập thể thao sau khi tiêm vaccine COVID-19: nên hay không?
Gần đây, trên mạng xã hội lan truyền thông tin cho rằng dùng quá nhiều thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường acid folic có thể gây độc, thậm chí dẫn đến ung thư. Thực hư thông tin này ra sao?
Người lớn và trẻ em bị dị ứng đường hô hấp, chẳng hạn như viêm mũi dị ứng (viêm đường mũi sau khi tiếp xúc với chất gây dị ứng), có nguy cơ cao bị chảy máu cam.
Đốm đồi mồi là những vết sẫm màu, phẳng do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường xuất hiện trên mặt, tay và các vùng da hở khác. Hãy trao đổi với bác sĩ chuyên khoa da liễu trước khi sử dụng các biện pháp khắc phục tự nhiên.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.