Tuy gần như hầu hết các loại cá đều có chứa thuỷ ngân, một nghiên cứu mới tìm ra rằng những lợi ích của việc tiêu thụ cá trong thai kỳ “đánh bại” những hậu quả của việc phơi nhiễm thuỷ ngân cho trẻ sơ sinh.
Nghiên cứu được tiến hành bởi TS. Kim Yolton, đến từ Trung tâm Y khoa - Bệnh viện Nhi khoa Cincinnati ở Ohio, Hoa Kỳ và được công bố trên tạp chí “Neurotoxicology and Tetratology”.
Theo các nhà nghiên cứu, những nghiên cứu trước đây khảo sát hậu quả của việc phơi nhiễm thuỷ ngân nồng độ thấp trong giai đoạn mang thai từ việc tiêu thụ cá lên các kết cục biểu hiện hành vi thần kinh của trẻ sơ sinh là hết sức hạn chế. Do đó, họ tiến hành một nghiên cứu chi tiết bao gồm 344 trẻ nhũ nhi ở 5 tuần tuổi, sử dụng Thang điểm hệ thống Hành vi thần kinh NICU (NICU Network Neurobehavioral Scale – NNNS).
Các nhà nghiên cứu đo lường việc phơi nhiễm thuỷ ngân trong thai kỳ thông qua máu thai phụ và máu cuống rốn thai nhi. Nhóm cũng đồng thời thu thập thông tin về lượng nhập cá của mẹ và ước tính lượng tiêu thụ các acid béo chưa bão hoà nhiều nối đôi dựa trên loại cá và lượng cá mà thai phụ ăn. Nhìn chung, 84% các bà mẹ báo cáo tiêu thụ cá trong thai kỳ, tuy nhiên họ chỉ ăn trung bình khoảng 57 g cá (2 ounce) mỗi tuần.
Năm 2014, cả Cục quản lý Thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ (FDA) và Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) đều xem xét lại lời khuyên của họ cho thai phụ về lượng cá tiêu thụ, họ khuyên thai phụ nên tiêu thụ 226 – 340g cá (8-12 ounce) mỗi tuần, cũng như lựa chọn loại cá với mức độ thuỷ ngân thấp nhất. Những loại cá có nồng độ thuỷ ngân thấp bao gồm cá hồi, tôm, cá tuyết (Pollock), cá ngừ đóng hộp sáng, cá rô phi, cá trê; trong khi đó các loại cá có nồng độ thuỷ ngân cao bao gồm cá chấm vàng, cá mập, cá kiếm, cá thu.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thuỷ ngân có thể gây ra các hậu quả độc hại lên hệ thần kinh, tiêu hoá và miễn dịch, cũng đồng thời tác động lên phổi, thận, da và mắt. Thuỷ ngân nằm trong danh sách nhóm 10 hoá chất hàng đầu là mối quan tâm sức khoẻ cộng đồng chính yếu của WHO.
Tuy vậy, kết quả từ nghiên cứu mới nhất cung cấp khá ít chứng cứ về tác hại lên trẻ sơ sinh có mẹ tiêu thụ lượng cá thấp và những phụ nữ phơi nhiễm thấp với thuỷ ngân. Điều thú vị là, những trẻ nhũ nhi có mẹ phơi nhiễm với thuỷ ngân cao hơn cũng như tiêu thụ nhiều cá hơn lại biểu hiện sự chú ý tốt hơn và cần ít kỹ năng xử lý đặc biệt hơn.
Các nhà nghiên cứu cho rằng điều này là do những tác động dinh dưỡng có lợi của việc tiêu thụ cá. Mặc dù những trẻ nhũ nhi phơi nhiễm thuỷ ngân trước sinh cao hơn cho thấy các phản xạ bất đối xứng, nhưng sau khi các nhà nghiên cứu tính đến việc tiêu thụ cá, họ phát hiện ra rằng những trẻ nhũ nhi có mẹ tiêu thụ cá nhiều hơn biểu hiện sự chú ý tốt hơn.
Bình luận về các phát hiện của mình, TS. Yolton cho rằng: “Không nên diễn giải những biểu hiện hành vi thần kinh tốt hơn quan sát được ở các trẻ với các chỉ dấu sinh học của thuỷ ngân cao hơn như là một tác dụng có lợi của việc phơi nhiễm thuỷ ngân, việc phơi nhiễm này rõ ràng là có hại cho thần kinh. Điều này có khả năng phản ánh những lợi ích của việc tiêu thụ acid béo chưa bão hoà nhiều nối đôi đến từ cá và cũng cho thấy lợi ích trên sự tập trung, trí nhớ và các vùng phát triển khác của trẻ”.
Theo FDA, hầu như tất cả các loại cá đều chứa ít nhất một lượng nhỏ thuỷ ngân vì cá hấp thu thuỷ ngân khi chúng ăn. Thuỷ ngân thông thường có thể tích tụ nhiều hơn ở một số loại cá nhất định, đặc biệt ở những loại cá lớn hơn với vòng đời dài hơn. Mặc dù cá mang lại nhiều lợi ích về sức khoẻ cho cộng đồng nói chung, nhiều người hiện nay không tiêu thụ đủ lượng cá theo khuyến cáo, từ 2 đến 3 phần cá mỗi tuần. “Điều quan trọng mà phụ nữ nên nhớ là cá cung cấp một lượng chất dinh dưỡng tuyệt vời có khả năng có lợi cho trẻ đang phát triển hoặc trẻ nhỏ” – TS. Yolton phát biểu. “Các bà mẹ chỉ nên cần hiểu biết về loại cá mà họ ăn hoặc cung cấp cho con họ.”
TS. cũng bổ sung thêm trong nghiên cứu của mình rằng nguy cơ phơi nhiễm thuỷ ngân là thấp - có khả năng do các bà mẹ tiêu thụ cá với lượng thuỷ ngân thấp – “do đó các tác dụng bất lợi có thể bị “đánh bại” bởi các tác dụng có lợi của chất dinh dưỡng từ cá”.
Khi nói đến giảm cân, chúng ta thường tập trung vào chế độ ăn kiêng và tập thể dục. Tuy nhiên, có hai yếu tố sinh học mạnh mẽ thường bị bỏ qua nhưng lại là chìa khóa để đạt được và duy trì cân nặng lý tưởng: chất lượng giấc ngủ và mức độ stress.
Thời điểm giao mùa thu đông thời tiết thay đổi thất thường, nhiệt độ giảm và độ ẩm tăng, là điều kiện lý tưởng để các tác nhân gây bệnh đường hô hấp như virus và vi khuẩn phát triển mạnh. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp các biện pháp thiết thực để phòng bệnh hô hấp, giúp bạn và gia đình bảo vệ sức khỏe khi giao mùa.
Chế độ ăn uống là yếu tố quan trọng trong việc điều chỉnh mức cholesterol. Có một số loại thực phẩm chúng ta ăn hằng ngày có thể cải thiện mức cholesterol trong máu và giảm nguy cơ mắc bệnh tim.
Ăn rau là một trong những cách giúp cải thiện sức khỏe và hỗ trợ giảm cân. Tuy nhiên không phải loại rau nào cũng giống nhau. Khi muốn giảm cân nhanh hơn hãy ưu tiên các loại rau không chứa tinh bột.
Gan là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa, giải độc và duy trì sức khỏe toàn diện của cơ thể.
Sức khỏe xương chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nhiều yếu tố, trong đó dinh dưỡng đóng vai trò trung tâm, cung cấp nguyên vật liệu giúp quá trình hình thành, khoáng hóa và duy trì cấu trúc xương suốt vòng đời.
Sự kết hợp giữa thời tiết lạnh, hanh khô và mức độ ô nhiễm không khí cao là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe phổi. Để củng cố hệ hô hấp và giảm thiểu tác động tiêu cực, việc bổ sung dưỡng chất là rất cần thiết. Dưới đây là 7 loại thực phẩm được khuyên dùng để tăng cường sức khỏe cho phổi.
Dấu hiệu chính của vô sinh là không có thai sau một năm cố gắng thụ thai (hoặc 6 tháng nếu người vợ từ 35 tuổi trở lên). Vô sinh có thể xảy ra do các yếu tố ở cả hai bên vợ chồng, nhưng các dấu hiệu và triệu chứng khác nhau giữa nam và nữ.