Xơ mỡ động mạch là tiến trình kéo dài trong nhiều năm và là kết quả của quá trình rối loạn mỡ trong máu.
Ngày nay người ta cho rằng sự tăng cao thành phần mỡ gây hại là LDL-cholesterol và giảm thành phần mỡ bảo vệ là HDL-cholesterol sẽ gây ra xơ mỡ động mạch. LDL-cholesterol cùng với hiện tượng oxy hoá góp phần quan trọng trong việc tạo ra mảng xơ mỡ. Chống được hiện tượng oxy hóa, sẽ làm chậm lại tiến trình xơ mỡ động mạch này, nghĩa là đã góp phần làm giảm tỉ lệ tử vong do bệnh tim mạch.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy có một số vitamin tham gia chống quá trình oxy hoá gây ra xơ mỡ động mạch như vitamin C (acid ascorbi), vitamin E (tocopherol), tiền vitamin A (caroten).
Ngoài các vitamin nêu trên, các yếu tố vi lượng khác có chứa các chất như đồng, kẽm là những yếu tố đồng vận giúp các enzym chống lại quá trình oxy hóa hoạt động tốt hơn.
Một nghiên cứu tại Cambrige (Anh) cho thấy khi dùng vitamin E liều cao (400 – 800 UI/ ngày) ở những bệnh nhân bị hẹp động mạch vành do xơ mỡ động mạch, sau 200 ngày dùng thuốc thì nguy cơ nhồi máu cơ tim giảm 77% và nguy cơ bệnh tim mạch khác giảm 47°/o.
Một nghiên cứu khác đã được thực hiện trên bệnh nhân bị hẹp động mạch vành tim đã phẫu thuật. Nghiên cứu này so sánh giữa hai nhóm: một nhóm dùng thuốc điều trị xơ mỡ động mạch là Probucol l000mg/ngày phối hợp với vitamin C l000mg/ngày, vitamin E 1400 đơn vị/ngày, caroten l00mg/ngày so sánh với một nhóm khác chỉ dùng Probucol. Kết quả sau 6 tháng cho thấy nhóm có kết hợp với vitamin cho kết quả tốt hơn: giảm được 42°/o lượng mỡ trong máu.
Qua một vài nghiên cứu trên, ta thấy lợi ích của một số vitamin trong phòng ngừa bệnh xơ mỡ động mạch là rất lớn. Nhất là sự phối hợp vitamin C, vitamin E và caroten sẽ tốt hơn cho sức khỏe nếu chúng ta có điều kiện dùng các vitamin này.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần lưu ý trong ăn uống để cung cấp đầy đủ các vitamin cần thiết.
Vitamin C có nhiều trong cây xanh, rau quả như chanh, cam, quýt, bưởi, bắp cải. Nhu cầu cơ thể về vitamin C có nhiều hơn các loại vitamin khác rất nhiều. Người lớn cần khoảng 50-100mg, nghĩa là lmg/kg thể trọng mỗi ngày; đối với trẻ em và phụ nữ có thai cần 100-200mg mỗi ngày. Vitamin C ngoài tác dụng tốt cho tim mạch còn có tác dụng chống lại bệnh cúm, điều này đã được biết từ vài chục năm trước đây: với liều dùng khá cao lg -4g/ ngày người ta có thể rút ngắn được 30% thời gian mắc bệnh cúm.
Caroten hay còn gọi là tiền vitamin A có trong tất cả các thực vật xanh, cà rốt, nhưng caroten là một hợp chất không bền sẽ phân giải nhanh chóng khi bị sấy khô. Caroten được giữ nhiều nhất bằng phương pháp ủ chua. Vitamin A trong thiên nhiên có trong dầu cá, bơ, trứng, sữa. Nguồn vitamin A chính này được tổng hợp dưới dạng acetat.
Vitamin E (tocopherol) cần cho nhu cầu cơ thể hàng ngày là 5mg. Công dụng của vitamin E đã được biết từ lâu với tác dụng chữa chứng bệnh vô sinh. Ngày nay vitamin E đều được sử dụng dưới dạng tổng hợp.
Các yếu tố vi lượng như magie, kẽm, đồng có nhiều trong thịt, trứng, sữa.
Như vậy khi đã được xác định có vấn đề về bệnh tim mạch và xơ mỡ động mạch, bạn nên bổ sung thêm các thức ăn giàu vitamin và tham khảo ý kiến của bác sĩ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?