“Đột biến”. Đây là từ gợi lên một cách tự nhiên về nỗi sợ hãi trước những thay đổi bất ngờ và quái dị. Những thông tin không mấy tích cực này được nêu ra trong nhiều cuộc thảo luận trong suốt thời gian đại dịch. Lý do là chúng ta cần phải nhìn virus SARS-CoV-2 một cách chính xác nhất.
Tuy nhiên, đột biến không nhất thiết là một điều gì đó quá tồi tệ. Mọi virus đều biến đổi vì đó là một phần của vòng đời chúng. Những thay đổi này không phải lúc nào cũng gây ra vấn đề nghiêm trọng.
Trong một số trường hợp, những đột biến đó có thể dẫn đến sản sinh một loại virus yếu hơn. Tuy nhiên, thông thường những thay đổi này thường rất nhỏ đến mức gần như không có sự khác biệt nào đáng chú ý trong tỷ lệ lây truyền và tử vong của bệnh.
Chủng mới của coronavirus đang biến đổi, nhưng rất chậm
Chủng mới của coronavirus là một loại virus sao chép mã RNA: một tổ hợp các “vật liệu di truyền” được bao gọn bên trong một lớp vỏ protein. Khi virus tiếp xúc với vật chủ, nó bắt đầu tạo ra các bản sao mới của chính nó dựa trên mã RNA để có thể tiếp tục lây nhiễm sang các tế bào khác.
Những virus dạng này như cúm và sởi, chúng rất dễ biến đổi và đột biến khi so sánh với virus sao chép mã DNA, chẳng hạn như virus herpes, virus đậu mùa hay virus HPV.
Đối với virus sao chép mã RNA, sự thay đổi là điều hoàn toàn bình thường. Virus SARS-CoV-2 cũng không phải là trường hợp ngoại lệ, và trong vài tháng qua chúng đã có đột biến. Tuy nhiên, virus này biến đổi với tốc độ rất chậm và khi biến đổi, các bản sao mới cũng không khác quá nhiều so với virus gốc.

Các chủng đột biến mới của virus - giống những chủng đang hoành hành tại Ý và New York, cho thấy dường như không có khả năng lây nhiễm hoặc gây tử vong cao hơn chủng ban đầu xuất hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối tháng 12 năm 2019.
Khả năng virus này có thể biến đổi trở nên đáng sợ hơn là rất ít, và nếu có thể biến đổi thì virus này nhiều khả năng sẽ trở thành phiên bản yếu hơn so với phiên bản ban đầu. Hơn nữa, theo nghiên cứu cho thấy, hầu như tất cả các đột biến sẽ làm cho một phần của virus hoạt động kém hơn trước, và khiến cho các đột biến này xuất hiện và chết đi nhanh chóng. Cùng với đó, đặc điểm của chủng ban đầu và các thể đột biến của nó đa phần không khác biệt nhiều.
Điều này có ý nghĩa gì đối với công cuộc phát triển vaccine?
Các đột biến có thể sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả của vaccine COVID-19. Trên thực tế, bản chất đột biến chậm và thể nhẹ còn là tin tốt cho vaccine.
Theo các chuyên gia, hiện nay virus này vẫn rất giống với trình tự ban đầu đến nỗi thực sự các nhà khoa học không có nhiều lý do để nghĩ rằng những sự khác biệt này sẽ gây ra vấn đề nào đó cho việc phát triển vaccine. Vaccine hiện tại có xu hướng nhắm tới mục tiêu là một phiên bản sớm nhất của virus.
Lấy ví dụ về vaccine cúm chẳng hạn.
Vaccine phòng bệnh cúm hàng năm vẫn sử dụng một chủng được nghiên cứu từ năm 2009. Đó là dạng virus “tổ tiên” của các dạng khác nhau đã xuất hiện cho tới hiện nay, và sự khác biệt của các chủng sau này đối với chủng ban đầu không khiến các nhà khoa học lo ngại, vì phản ứng của vaccine này trên chủng ban đầu dường như mạnh mẽ hơn tất cả khi so sánh với các chủng đột biến phía sau. Thông thường, một chủng virus cũ sẽ bảo tồn đầy đủ các tính năng, mà nhờ đó, nó sẽ cung cấp khả năng miễn dịch đủ để chống lại hầu hết tất cả các nhóm biến thể sau này.
Tuy nhiên, virus cúm biến đổi nhanh và thất thường qua các năm. Hầu hết, hệ thống miễn dịch của chúng ta ghi nhớ khá tồi tệ trước các chủng virus cúm. Đó là lý do vì sao chúng ta cần tiêm vaccine cúm nhắc lại hàng năm. Nhưng cũng có những chủng virus biến đổi không khác nhiều so với ban đầu, và chúng ta đã có những vaccine rất hiệu quả để chống lại chúng. Có thể kể đến như vaccine sởi, quai bị, rubella. Do vậy, hoàn toàn có thể tin rằng chúng ta sẽ tạo ra một loại vaccine hiệu quả, cung cấp một khả năng miễn dịch lâu dài, thậm chí kể cả khi có đột biến xảy ra.

Chưa thể nói chính xác là khả năng miễn dịch sẽ kéo dài bao lâu, bởi vì khi một khi nhiễm bệnh và khỏi bệnh, hệ thống miễn dịch của người đó có thể tự sinh kháng thể và có thể tự chống lại virus nếu tái nhiễm trong tương lai.
Nhiều chuyên gia tin rằng, đại dịch SARS năm 2003 mang đến nguồn cung cấp kháng thể miễn dịch chống lại virus SARS mạnh trong khoảng 2 năm. Sau khoảng 3 năm, các kháng thể chống virus SARS giảm dần và làm tăng trở lại cơ hội nhiễm virus lần nữa. Điều này có thể tương tự với COVID-19.
Ngay cả khi một người không còn đủ lượng kháng thể khi khả năng miễn dịch của họ đã bị bào mòn theo thời gian, một số tế bào vẫn sẽ hoạt động trở lại nếu chúng phát hiện ra virus cũ, và cơ thể vẫn sẽ sẵn sàng chiến đấu. Trong thời gian tới, chúng ta hy vọng sẽ tạo dựng được miễn dịch cộng đồng - từ vaccine cũng như từ miễn dịch tự nhiên của những người đã mắc bệnh để có thể loại bỏ căn bệnh này.
Tất nhiên, không có cách nào để dự đoán chính xác điều gì sẽ xảy ra và khả năng miễn dịch của cơ thể người sẽ kéo dài bao lâu. "Thời gian sẽ trả lời câu hỏi đó."
Điểm mấu chốt
Virus SARS-CoV-2 đã bị đột biến một số lần tính đến thời điểm hiện tại, và điều này khiến nhiều người tự hỏi là liệu các đột biến có thể dẫn đến nguy hiểm hơn hay không. Theo các chuyên gia, các đột biến mới rất giống với dạng ban đầu xuất hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc, và dường như các dạng này thậm chí còn không nguy hiểm bằng dạng ban đầu.
Các đột biến ở thời điểm hiện tại rất giống nhau, và phát triển một loại vaccine có khả năng bảo vệ con người trước chủng virus ban đầu sẽ có khả năng bảo vệ cả trước những chủng đột biến mới. Việc cần thiết ngay bây giờ là nghiên cứu và phát triển loại vaccine này càng sớm càng tốt.
Tham khảo thêm thông tin tại: COVID-19 khác virus cảm cúm thông thường như thế nào?
Niềng răng là một quá trình quan trọng giúp cải thiện vẻ đẹp của hàm răng và nụ cười. Chế độ ăn uống trong thời gian này cần được chú ý để bảo vệ sức khỏe răng miệng và đảm bảo quá trình niềng răng diễn ra suôn sẻ.
Là một người lần đầu làm cha mẹ, bạn sẽ phải đưa ra hàng loạt quyết định trong thời gian ngắn để chăm sóc con yêu. Trong số đó, có một quyết định nên được cân nhắc từ sớm: chọn loại tã nào cho bé. Bạn có thể đang cân nhắc đến việc dùng tã giấy dùng 1 lần cho trẻ và phân vân liệu loại tã này có gây ra tác hại nào cho con hay không? Cùng tìm câu trả lời qua bài viết sau đây!
Mùa thu mang đến nhiều loại trái cây tươi ngon, giàu vitamin và chất chống oxy hóa. Lựa chọn đúng trái cây không chỉ giúp thanh lọc cơ thể mà còn hỗ trợ kiểm soát cân nặng, giữ vóc dáng cân đối...
Đôi mắt được ví như “cửa sổ tâm hồn”, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối với thế giới xung quanh. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại mắt thường xuyên chịu tác động tiêu cực từ ánh sáng xanh, tia cực tím, khói bụi và ô nhiễm. Việc không chăm sóc mắt đúng cách có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng như đục thủy tinh thể, thoái hóa điểm vàng, thậm chí mất thị lực. Bài viết này sẽ hướng dẫn bạn những phương pháp khoa học để bảo vệ và duy trì sức khỏe đôi mắt, từ chế độ dinh dưỡng, thói quen sinh hoạt đến việc thăm khám định kỳ.
Từ xa xưa, phụ nữ Việt Nam đã biết cách đun lá và vỏ bưởi lấy nước gội đầu làm đẹp tóc. Nhờ chứa nhiều limonene và vitamin C, lá bưởi giúp tăng lưu thông máu dưới da đầu, kích thích nang tóc phát triển.
Mùa đông đã gõ cửa, mang theo không khí lạnh đặc trưng và cả sự gia tăng hoạt động của virus gây cảm cúm. Cảm cúm không chỉ gây mệt mỏi mà còn mang đến các biến chứng không mong muốn, đặc biệt đối với trẻ em và người lớn tuổi. Vì vậy, việc trang bị kiến thức và áp dụng các biện pháp phòng ngừa là vô cùng cần thiết để bảo vệ sức khỏe cả nhà. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ cung cấp những mẹo quan trọng: từ vệ sinh cá nhân, dinh dưỡng hợp lý, đến các cách giữ ấm cơ thể, giúp gia đình bạn an toàn vượt qua mùa lạnh.
Nếu bạn thấy mình phải phụ thuộc vào cà phê buổi sáng để hỗ trợ việc đi tiêu, thì có thể bạn đang gặp phải một vấn đề khác: táo bón. Cà phê không phải là giải pháp lâu dài cho chứng táo bón, và việc phụ thuộc vào nó để đi tiêu đều đặn có thể gây ra những hậu quả không mong muốn.
Thời gian gần đây, do lo ngại về dầu ăn tái chế, dầu công nghiệp không rõ nguồn gốc nên nhiều gia đình có xu hướng quay lại dùng mỡ lợn với lý do 'ăn cho yên tâm'. Điều này là có cơ sở nhưng việc quay lại ăn hoàn toàn mỡ lợn thay thế dầu thực vật có phải là giải pháp tối ưu?