Gân gót hoạt động quá nhiều có thể gây viêm dẫn đến đau và sưng. Tình trạng này khác với một bệnh phổ biến khác ở gân asin gọi là gân gót bất thường. Bệnh nhân như vậy bị sưng gân asin mãn tính và đau do thoái hóa, soi kính hiển vi thấy các giọt chất dịch trong các gân.
Gân gót là gân lớn nhất trong cơ thể. Một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến các vấn đề ở gân gót là sự cung cấp máu hạn chế đến gân. Do lượng máu cung cấp là hạn chế nên việc hồi phục chấn thương có thể diễn ra khá chậm và khó khăn. Hầu hết lưu lượng máu đến gân đến từ các cơ bắp trên gân (cơ sinh đôi và cơ dép cẳng chân) và từ xương dưới gân (các xương gót). Giữa 2 vùng đó là gân gót và một khu vực đầu nguồn điển hình của dòng máu mà chỉ vận chuyển một lượng hạn chế oxy và các chất dinh dưỡng đến gân.
Nguyên nhân
2 yếu tố quan trọng liên quan đến sự tiến triển của bệnh viêm gân gót là:
Các yếu tố khác liên quan đến viêm gân gót là sự thay đổi giày dép thường xuyên và thay đổi lịch trình tập luyện thể dục hằng ngày. Thông thường những vận động viên chạy cự li dài sẽ có các triệu chứng của viêm gân gót sau khi họ tăng chiều dài quãng đường chạy hoặc tăng thời gian tập luyện.
Khi tuổi càng cao thì gân cũng như các mô cơ thể khác sẽ trở nên kém linh hoạt đi, cứng nhắc hơn và nhạy cảm hơn với chấn thương. Vì vậy, các vận động viên tuổi trung niên là những người dễ bị tổn thương nhất bởi bệnh viêm gân gót.
Triệu chứng chính của bệnh viêm gân gót là cảm giác đau ở sau gót chân.
Cơn đau thường đặc biệt nổi bật ở vùng cách 2-4 cm phía trên đoạn gân gắn với gót chân. Ở vị trí này, còn gọi là vùng đầu nguồn của gân, sự cung cấp máu hạn chế đến gân làm cho vùng này trở nên nhạy cảm hơn. Các dấu hiệu thường thấy của viêm gân bao gồm:
Các bệnh nhân bị viêm gân gót thường gặp phải các cơn đau rõ rệt sau một thời gian không hoạt động thể chất. Do vậy bệnh nhân có thể bị đau sau khi đi bộ vào buổi sáng và khi đứng dậy sau khi ngồi quá lâu. Họ cũng bị đau khi tham gia một số hoạt động như chạy nhảy. Cơn đau ở gân gót do tập luyện là triệu chứng nổi bật nhất khi thực hiện chống đẩy hoặc nhảy bật.
Chụp X quang thường được sử dụng với bệnh nhân bị viêm gân gót, nhưng là để đánh giá các bệnh khác có thể xuất hiện ở họ. Thông thường chụp cộng hưởng từ là cần thiết để đánh giá một bệnh nhân có dịch trong lòng gân.
Nếu cần phải sử dụng phương pháp phẫu thuật để chữa trị thì chụp cộng hưởng từ rất có ích trong việc lên kế hoạch và đánh giá sau này. Chụp cộng hưởng từ có thể giúp bác sĩ xác định được vị trí và mức độ tổn thương gân. Gần đây siêu âm cũng được tăng cường sử dụng bởi xét nghiệm này tiến hành rất nhanh và dễ dàng, từ đó bác sĩ xem xét được tình trạng và lượng chất dịch có ở gân gót.
Điều trị
Điều trị viêm gân gót cần bắt đầu bằng việc cho gân được nghỉ ngơi để tình trạng viêm được giảm bớt. Trong nhiều trường hợp nghiêm trọng hơn, việc nghỉ ngơi hoàn toàn là cần thiết với việc dùng nạng hoặc bó bột cố định mắt cá chân. Ngoài ra còn một số cách điều trị khác như dùng đá lạnh, thuốc, tiêm và phẫu thuật.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?