Nhìn chung trong số trẻ em và thanh thiếu niên (từ 0-19 tuổi), loại ung thư phổ biến nhất là bệnh bạch cầu (leukemia), ung thư não, khối u hệ thần kinh trung ương và ung thư máu. Trong nhóm trẻ em (0-14 tuổi), dạng ung thư phổ biến nhất là bệnh bạch cầu (leukemia), theo sau là các khối u não và hệ thần kinh trung ương, ung thư máu, u nguyên bào thần kinh, u thận và khối u ác tính ở xương. Trong nhóm trẻ vị thành niên (15-19 tuổi), dạng ung thư phổ biến nhất là u não và hệ thần kinh trung ương, ung thư máu, bệnh bạch cầu (leukemia), ung thư tuyến giáp, ung thư bộ phận sinh dục (tinh hoàn và buồng trứng), khối u tế bào mầm và khối u xương ác tính.
Tiên lượng khi trẻ em bị ung thư?
Tiên lượng khi trẻ em bị ung thư đã được cải thiện đáng kể trong vòng nửa thế kỷ vừa qua. Vào khoảng giữa những năm 1970, 58% trẻ em 0-14 tuổi và 68% thanh thiếu niên 15-19 tuổi được chẩn đoán mắc ung thư có thể sống thêm ít nhất 5 năm. Trong giai đoạn 2010-2016, 84.1% trẻ em và 85.3% thanh thiếu niên được chẩn đoán mắc ung thư có thể sống thêm ít nhất 5 năm.
Sự cải thiện chủ yếu trong một số loại ung thư, đặc biệt là ở bệnh bạch cầu lympho cấp tính. Tỷ lệ sống sau 5 năm tăng từ 57% (1975) lên 92% (2014). Tỷ lệ sống của trẻ được chẩn đoán bệnh lympho non-Hodgkin của trẻ 0-14 tuổi cũng tăng lên rõ rệt, từ 43% (1975) lên 91% (2012). Do tỷ lệ sống sau 5 năm tăng hơn, tủ vong do ung thư não đã trở thành hàng đầu ở trẻ em.
Ngược lại, tỷ lệ sống sót vẫn còn thấp với một số loại ung thư: một nửa số trẻ bị u thần kinh đệm cầu não chỉ sống được khoảng 1 năm sau chẩn đoán; ung thư biểu mô liên kết có tỷ lệ sống thêm 5 dao động từ 65% (sarcoma cơ vân) đến 95% (ung thư sụn) nhưng nếu ung thư đã di căn thì tỷ lệ sống sót sẽ thấp hơn nhiều. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm với trẻ em bị bệnh leukemia cấp cũng cao hơn so với giai đoạn 2008-2014 (91% so với 74%).
Nhìn chung tỷ lệ tử vong do ung thư ở trẻ em và thanh thiếu niên đã giảm đi hơn 50% từ năm 1975 đến 2017. Đặc biệt, tỷ lệ tử vong chỉ là 5,1/100.000 năm 1975 và giảm xuống chỉ còn 2,2/100.000 vào năm 2017. Tuy vậy, vẫn có tới 1800 trẻ em và thanh thiếu niên tử vong do ung thư mỗi năm tại Mỹ.
Đa số các nguyên nhân gây ung thư đều chưa được biết rõ. Có khoảng 10% các dạng ung thư ở trẻ em là do đột biến di truyền (dòng mầm) di truyền từ bố mẹ. Đột biến gen khởi phát ung thư cũng có thể phát sinh trong giai đoạn bào thai. Tuy nhiên, đa số các dạng ung thư ở trẻ em, cũng giống như ở người lớn là hậu quả của đột biến các gen, dẫn đến sự phát triển không kiểm soát được của các tế bào, từ đó dẫn đến ung thư.
Ở người trưởng thành, tình trạng này là kết quả của việc phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ gây ung thư trong môi trường như khói thuốc lá, amiang và tia UV. Tuy nhiên, các yếu tố môi trường có khả năng gây ung thư ở trẻ em rất khó phát hiện, một phần là do tỷ lệ ung thư ở trẻ em rất hiếm gặp. Một số yếu tố nguy cơ phổ biến trong môi trường là bức xạ ion hóa (có thể dẫn đến bệnh leukemia và các loại ung thư khác), tia phóng xạ (từ các quả bom nguyên tử, các vụ nổ nhà máy hạt nhân), trẻ có mẹ phải chụp X quang, chụp CT, trong khi mang thai…v…v
Trẻ em sau khi điều trị ung thư thường có nguy cơ cao hơn gặp phải các ảnh hưởng lâu dài do các biện pháp điều trị ung thư để lại, ví dụ như ung thư thứ phát, thay thế khớp, giảm thính lực, suy tim…Do đó, trẻ em sau khi điều trị ung thư cần được theo dõi trong thời gian dài và thường xuyên được khám lại để phát hiện sớm các biến chứng sau điều trị và được điều trị càng sớm càng tốt.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Bệnh bạch cầu (máu trắng) ở trẻ em
Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?
Nhiễm ký sinh trùng có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khỏe như các triệu chứng về tiêu hóa không rõ nguyên nhân, ngứa, thiếu máu, đau cơ và khớp, ăn không thấy no,… Cùng tìm hiểu về 10 dấu hiệu cho thấy có thể bạn đang nhiễm ký sinh trùng qua bài viết sau đây!
Nước dừa có thành phần dinh dưỡng đặc biệt và nhiều lợi ích cho sức khỏe như cung cấp chất điện giải, giúp hạ huyết áp... Đây là lý do nước dừa ngày càng trở thành lựa chọn phổ biến của nhiều người.
Dù là trà đen, trà xanh, trà trắng hay trà ô long, trà nóng hay trà đá đều có nguồn gốc từ cây trà, Camellia sinensis. Nhưng trà thảo mộc thì khác. Trà thảo mộc bắt nguồn từ việc ngâm nhiều loại hoa, lá hoặc gia vị trong nước nóng. Hầu hết các loại trà này đều không có caffeine. Bạn có thể bắt đầu bằng những túi trà làm sẵn hoặc ngâm các nguyên liệu rời và sau đó lọc bỏ bã.
Nhiều người thực hiện thải độc cơ thể theo hướng dẫn truyền miệng và trên các nền tảng xã hội... và hiện nay đang dấy lên trào lưu thải độc bằng nước cốt chanh. Vậy sự thật về phương pháp thải độc này như thế nào?
Dầu dừa là một chất dưỡng ẩm tự nhiên. Nhiều người bị chàm nhận thấy dầu dừa có tác dụng làm dịu da và giảm các triệu chứng như khô và ngứa.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Mật ong với nghệ có thể được dùng cùng nhau trong chế độ ăn hằng ngày và thực phẩm bổ sung, vậy tác dụng của chúng có mạnh hơn khi kết hợp?