HPV 16 và HPV 18 là hai type gây ung thư cổ tử cung thường gặp nhất. Kế tiếp là các type HPV 31, 33, 45. Đây là 5 tuýp HPV sinh ung thư thường gặp nhất.
Nhiễm một số type nhất định của một loại virus thường gặp là HPV có thể gây ra nhiều bệnh lý ở vùng sinh dục, bao gồm ung thư cổ tử cung. Ung thư cổ tử cung là gánh nặng bệnh lý lớn nhất do nhiễm HPV.
Có nhiều type HPV khác nhau, một số type được gọi là HPV sinh ung thư hoặc HPV nguy cơ cao bởi vì chúng có thể gây ra tình trạng nhiễm dai dẳng mãn tính và nếu đi kèm với các yếu tố nguy cơ khác có thể dẫn đến ung thư. HPV 16 và HPV 18 là hai type gây ung thư cổ tử cung thường gặp nhất. Kế tiếp là các type HPV 31, 33, 45. Đây là 5 tuýp HPV sinh ung thư thường gặp nhất.
Hầu hết các tình trạng nhiễm HPV sinh dục đều tự lành. Một số trường hợp virus không được đào thải hết, sẽ xuất hiện các biến đổi trên các tế bào cổ tử cung, nếu như không được điều trị có thể dẫn đến các thương tổn tiền ung thư, và cuối cùng tiến triển đến ung thư. Thường mất nhiều năm để tiến triển đến ung thư cổ tử cung. Trong những trường hợp hiếm gặp, nó có thể tiến triển nhanh hơn.
Bệnh lây lan bằng cách nào?
HPV sinh dục lây lan một cách dễ dàng thông qua tiếp xúc trực tiếp qua da, trong hầu hết các dạng hoạt động tình dục với một người đã bị nhiễm virus.
Người bệnh có thể lây truyền virus HPV cho người khác mà không hề biết rằng bản thân đang bị nhiễm virus đó, vì họ không hề có triệu chứng.
Vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn quan tâm về nguy cơ nhiễm HPV hoặc ung thư cổ tử cung.
Những ai có nguy cơ bị nhiễm bệnh?
Những ai có quan hệ tình dục đều có nguy cơ nhiễm HPV. Có từ 50 – 80% những người có hoạt động tình dục sẽ bị nhiễm HPV sinh dục tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Hầu hết các tình trạng nhiễm virus đều tự lành. 5 type HPV nguy cơ cao 16, 18, 31, 33, 45 là thủ phạm trong hơn 80% trường hợp ung thư cổ tử cung.
Nếu như có bất cứ thắc mắc nào liên quan đến nhiễm virus HPV, vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ về các tình huống mà gia đình bạn gặp phải.
Các triệu chứng của HPV?
Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều không gây ra triệu chứng và cuối cùng sẽ tự biến mất, do đó người nhiễm có thể không biết là họ đã bị nhiễm. Ở một số phụ nữ, việc nhiễm các loại HPV nguy cơ cao có thể dẫn đến những sự biến đổi tế bào ở cổ tử cung, nếu như không được điều trị có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung.
Xét nghiệm phiến đồ âm đạo sẽ giúp tìm ra những biến đổi tế bào bất thường ở cổ tử cung. Việc tiến hành phết tế bào âm đạo một cách thường quy là rất quan trọng, vì chúng có thể cho chúng ta một cảnh báo sớm rằng ung thư có thể phát triển trong tương lai.
Các khuyến cáo về việc tiêm vắc-xin
Vắc-xin HPV bao gồm 3 mũi, thường được tiêm trong khoảng thời gian 6 tháng. Điều quan trọng là đối tượng cần được tiêm đầy đủ cả ba mũi vắc-xin mới có thể được bảo vệ chống lại tình trạng nhiễm HPV.
Các vắc-xin ngừa HPV hiện tại không giúp bảo vệ chống lại tất cả các tuýp HPV gây ra ung thư. Chúng cũng không có bất cứ tác dụng nào lên tình trạng nhiễm HPV xuất hiện trước khi tiêm vắc-xin. Do đó, việc làm phiến đồ âm đạo được khuyến cáo cho tất cả phụ nữ có hoạt động tình dục, thậm chí khi họ đã có tiêm phòng vắc-xin.
Chủng ngừa vắc-xin song song với tầm soát bằng phiến đồ âm đạo là biện pháp hữu hiệu để ngừa ung thư cổ tử cung ở phụ nữ.
Một số tác dụng phụ có thể xuất hiện sau khi tiêm vắc-xin. Vui lòng thảo luận với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn về những vấn đề bạn quan tâm và thông báo cho họ biết nếu bạn hoặc người thân của bạn xuất hiện các triệu chứng của các tác dụng phụ vì trong nhiều trường hợp có thể phải cần điều trị.
Thông tin tham khảo:
Australian Government Department of Health and ageing, The Australian Immunisation Handbook, 10th edition, 2013, pp.231-242
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?