Trẻ em sinh ra từ những người mẹ có tiêu thụ caffeine (kể cả lượng thấp dưới mức khuyến nghị hiện tại là 200 mg mỗi ngày) trong thời kỳ mang thai sẽ thấp hơn một chút so với những đứa trẻ sinh ra từ những người mẹ không tiêu thụ caffeine khi mang thai.
Trong một nghiên cứu mới đây, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ngay cả khi lượng caffeine thấp trong thai kỳ cũng có thể ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, sự khác biệt về chiều cao quan sát được là nhỏ - dưới 2,5cm - và cần nghiên cứu thêm để xác định xem những khác biệt này có bất kỳ ảnh hưởng nào đến sức khỏe của trẻ hay không.
Phát triển chiều cao tối ưu cho con trẻ là một trong những vấn đề được bố mẹ quan tâm hàng đầu trong cuộc sống hiện nay. Bên cạnh yếu tố gen duy truyền, một chế độ dinh dưỡng cân đối, lành mạnh cùng chế độ sinh hoạt - luyện tập khoa học sẽ giúp con phát triển chiều cao vượt sức mong đợi. Đăng ký ngay Gói khám Tăng chiều cao tối ưu cho con tại Phòng khám chuyên khoa Dinh dưỡng VIAM để được các chuyên gia đầu ngành về dinh dưỡng và vận động đồng hành cùng bố mẹ trong hành trình chăm sóc cho con.
Hãy liên hệ với chúng tôi qua hotline 0935.18.39.39 hoặc 0243.633.5678 để nhận tư vấn chi tiết.
Phụ nữ mang thai được khuyên nên tiêu thụ ít hơn 200 mg caffeine mỗi ngày
Các hướng dẫn hiện tại về tiêu thụ caffeine trong thai kỳ khuyến nghị phụ nữ nên tiêu thụ ít hơn 200 mg caffeine mỗi ngày, tương đương với một tách cà phê 350ml. Ngoài cà phê, các loại trà, nước tăng lực, nước ngọt và sô cô la đều chứa lượng caffeine khác nhau.
Những hướng dẫn này dựa trên nghiên cứu cho thấy rằng tiêu thụ ít hơn 200 mg caffeine mỗi ngày không gây sẩy thai hoặc sinh non.
Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu thêm để xem liệu việc tiếp xúc với caffeine khi còn trong bụng mẹ có ảnh hưởng gì đến đứa trẻ sau khi chúng được sinh ra hay không. Nghiên cứu mới của NIH được công bố vào ngày 25 tháng 3 năm 2021, trên tạp chí JAMA Network Open cho thấy lượng caffeine vừa phải trong thời kỳ mang thai có thể dẫn đến kích thước khi sinh nhỏ hơn.
Tiêu thụ một lượng nhỏ caffeine hàng ngày trong thời kỳ mang thai có liên quan đến chiều cao của trẻ thấp hơn
Trong số 788 trẻ em trong nghiên cứu nghiên cứu này, những đứa trẻ được sinh ra từ những phụ nữ tiêu thụ caffeine sẽ thấp hơn trung bình 1,5 cm so với những trẻ có mẹ không tiêu thụ caffeine. Trung bình, phụ nữ mang thai trong nghiên cứu tiêu thụ ít hơn 50 mg caffeine mỗi ngày. Sự tăng trưởng của trẻ được đo một lần, ở độ tuổi trung bình là 7 tuổi.
Bắt đầu từ 4 tuổi, trẻ em được sinh ra từ mẹ có sử dụng caffeine bắt đầu có chiều cao thấp hơn nhóm trẻ còn lại, khoảng cách tăng từ 0,68 cm khi 4 tuổi lên 2,2 cm khi 8 tuổi. Dựa vào đó, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng một lượng nhỏ caffeine hàng ngày trong thời kỳ mang thai có liên quan đến tầm vóc của trẻ nhỏ hơn ít nhất là đến 8 tuổi.
Phụ nữ có nên ngừng uống cà phê khi đang mang thai?
Theo các nhà nghiên cứu, mỗi phụ nữ nên nói chuyện với bác sĩ để quyết định mức tiêu thụ caffeine an toàn trong thai kỳ.
Các hướng dẫn hiện tại của Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và các chuyên gia khác nói rằng phụ nữ mang thai có thể tiêu thụ 200mg caffein mỗi ngày (tương đương với một tách cà phê) là an toàn cho phụ nữ mang thai.
Nếu sử dụng lượng cà phê nhiều hơn có thể làm tăng nhẹ nguy cơ sảy thai, mặc dù các bằng chứng hiện có chưa đủ để kết luận. Nhưng vì caffeine có thể thấm qua hàng rào nhau thai, nên hầu hết các bác sĩ khuyên nên sử dụng ở mức độ giới hạn 200mg.
Hãy nhớ rằng caffeine cũng được tìm thấy trong trà và cà phê, cụ thể:
Vì vậy, để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi, khi mang thai hãy thông báo cho bác sĩ theo dõi sức khỏe biết lượng caffeine đang uống hoặc ăn để có tư vấn thích hợp đến mức hợp lý caffeine tiêu thụ.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.