Những con số thống kê
Bắt đầu kể từ những năm 1980, tỷ lệ sinh đôi đã tăng 1/3 so với con số trước đó: từ 9 lên 12 ca trên 1000 ca sinh. ĐIều này có nghĩa là khoảng 1,6 triệu cặp song sinh được sinh ra mỗi năm trên toàn thế giới và cứ 42 trẻ được sinh ra thì có một trẻ sinh đôi. Nghiên cứu phát hiện ra rằng nguyên nhân chính của sự gia tăng này là sự phát triển của hỗ trợ y tế sinh sản (MAR), không chỉ bao gồm kỹ thuật IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) mà còn cả các phương pháp đơn giản hơn, chẳng hạn như kích thích buồng trứng và thụ tinh nhân tạo.
Một nguyên nhân khác của sự gia tăng này là tình trạng chậm sinh con được quan sát thấy ở nhiều quốc gia trong những thập kỷ qua, vì tỷ lệ sinh đôi tăng theo tuổi của người mẹ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng tỉ lệ sinh đôi có thể đã đạt đỉnh – đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập cao như Châu Âu và Bắc Mỹ vì các khu vực này ngày càng chú trọng đến tầm quan trọng của việc cố gắng mang thai một con. Điều này cũng xảy ra ở các nước thu nhập thấp hơn chẳng hạn như Châu Phi, tuy nhiên khả năng khẳng định chắc chắn là thấp hơn.
Các chuyên gia đã thu thập thông tin về tỷ lệ sinh đôi trong giai đoạn 2010-2015 từ 165 quốc gia, và đã bao phủ 99% dân số thế giới. Trong giai đoạn 1980-1985, nghiên cứu cũng đưa ra được thông tin về tỷ lệ sinh đôi trên 112 quốc gia. Theo đó, tỷ lệ sinh đôi tăng đáng kể ở nhiều nước Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu Á.
Các chuyên gia cho biết trong cả hai thời kỳ khảo sát, châu Phi có tỷ lệ sinh đôi cao nhất và không có sự gia tăng đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, châu Âu, Bắc Mỹ và các quốc gia châu Đại Dương đang bắt kịp nhanh chóng. Khoảng 80% tổng số ca sinh đôi trên thế giới hiện đã ở Châu Á và Châu Phi. Theo các chuyên gia giải thích, tỷ lệ sinh đôi ở châu Phi cao như vậy là do số lượng cặp song sinh dị hợp tử cao được sinh ra ở đó - những cặp song sinh được sinh ra từ hai quả trứng riêng biệt. Điều này rất có thể là do sự khác biệt về gen giữa nhóm dân cư châu Phi và các nhóm dân cư khác.
Số lượng tuyệt đối các ca sinh đôi đã tăng lên ở khắp mọi nơi, ngoại trừ Nam Mỹ. Ở Bắc Mỹ và châu Phi, con số này đã tăng hơn 80%, và ở châu Phi, sự gia tăng này gần như hoàn toàn là do gia tăng dân số. Hầu hết sự gia tăng tỷ lệ sinh đôi đến từ các cặp song sinh dị hợp tử, trong khi có rất ít thay đổi về tỷ lệ song sinh đơn hợp tử (sinh đôi cùng trứng), và tỉ lệ này vẫn ổn định ở mức khoảng 4 trên 1000 ca sinh trên toàn thế giới.
Nguyên nhân nào cho sự gia tăng?
Bằng chứng từ nghiên cứu cho thấy sự sẵn có và sử dụng các biện pháp hỗ trợ y tế trong sinh sản ngày càng tăng là nguyên nhân chính của sự gia tăng tỉ lệ sinh đôi; và nó bắt đầu ở các quốc gia giàu có vào những năm 1970 và lan sang các nền kinh tế mới nổi ở châu Á và châu Mỹ Latinh trong những năm 1980 và 1990, đến những khu vực thịnh vượng hơn ở Nam Á và châu Phi sau năm 2000. Phụ nữ chọn lập gia đình muộn hơn, tăng cường sử dụng các biện pháp tránh thai và mức sinh thấp hơn nói chung cũng đóng một vai trò nhất định trong gia tăng tỉ lệ sinh đôi.
Trong khi tỷ lệ sinh đôi ở nhiều nước phương Tây hiện đang tiến gần đến các nước ở châu Phi – cận Sahara, vẫn có một sự khác biệt rất lớn về cơ hội sống sót của các cặp song sinh ở hai khu vực này. Các nhà nghiên cứu cho biết các quốc gia cần lưu trữ dữ liệu tốt hơn về các ca sinh đôi, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp – nơi có tỷ lệ tử vong ở các cặp song sinh cao nhất vì nhiều nơi còn thiếu các số liệu thống kê đáng tin cậy. Đây là hạn chế chính của nghiên cứu.
Sự kết hợp của nhiều yếu tố
Các dữ liệu hiện nay hầu hết cho biết tỉ lệ song sinh đang đạt mức đỉnh ở các nước thu nhập cao, đặc biệt là Châu Âu và Bắc Mỹ. Bản thân khu vực Châu Phi cũng sẽ là một trong những điểm nổi trội chính trong những thập kỷ tới.
Tham khảo thêm thông tin tại: Thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới không?
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.