Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Tỉ lệ mang thai và sinh đôi đang trở nên cao hơn bao giờ hết!

Theo báo cáo tổng quan toàn cầu được công bố trên tạp chí Human Reproduction – một trong những tạp chí Y – sinh học hàng đầu thế giới đã công bố cho thấy thế giới ngày càng có nhiều cặp song sinh hơn bao giờ hết.

Những con số thống kê

Bắt đầu kể từ những năm 1980, tỷ lệ sinh đôi đã tăng 1/3 so với con số trước đó: từ 9 lên 12 ca trên 1000 ca sinh. ĐIều này có nghĩa là khoảng 1,6 triệu cặp song sinh được sinh ra mỗi năm trên toàn thế giới và cứ 42 trẻ được sinh ra thì có một trẻ sinh đôi. Nghiên cứu phát hiện ra rằng nguyên nhân chính của sự gia tăng này là sự phát triển của hỗ trợ y tế sinh sản (MAR), không chỉ bao gồm kỹ thuật IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) mà còn cả các phương pháp đơn giản hơn, chẳng hạn như kích thích buồng trứng và thụ tinh nhân tạo.

Một nguyên nhân khác của sự gia tăng này là tình trạng chậm sinh con được quan sát thấy ở nhiều quốc gia trong những thập kỷ qua, vì tỷ lệ sinh đôi tăng theo tuổi của người mẹ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng tỉ lệ sinh đôi có thể đã đạt đỉnh – đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập cao như Châu Âu và Bắc Mỹ vì các khu vực này ngày càng chú trọng đến tầm quan trọng của việc cố gắng mang thai một con. Điều này cũng xảy ra ở các nước thu nhập thấp hơn chẳng hạn như Châu Phi, tuy nhiên khả năng khẳng định chắc chắn là thấp hơn.

Theo các chuyên gia tại trường đại học Oxford (Anh) – các tác giả của nghiên cứu cho biết: số lượng tương đối và tuyệt đối của các cặp song sinh trên thế giới hiện nay cao hơn so với những năm giữa thế kỷ XX và đây có lẽ là mức tỉ lệ cao nhất mọi thời đại. Điều này rất quan trọng vì sinh đôi có liên quan đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em cao hơn, cũng như gia tăng tỉ lệ gặp phải nhiều biến chứng hơn cho cả mẹ và trẻ trong khi mang thai, trong và sau khi sinh.

Các chuyên gia đã thu thập thông tin về tỷ lệ sinh đôi trong giai đoạn 2010-2015 từ 165 quốc gia, và đã bao phủ 99% dân số thế giới. Trong giai đoạn 1980-1985, nghiên cứu cũng đưa ra được thông tin về tỷ lệ sinh đôi trên 112 quốc gia. Theo đó, tỷ lệ sinh đôi tăng đáng kể ở nhiều nước Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu Á.

  • Trong giai đoạn 1980-1985, 74% trong số 112 quốc gia cho thấy mức gia tăng tỉ lệ là hơn 10%.
  • Mức tăng 32% ở Châu Á và 71% ở Bắc Mỹ. Mức giảm hơn 10% chỉ được tìm thấy ở 07 quốc gia khác.

Các chuyên gia cho biết trong cả hai thời kỳ khảo sát, châu Phi có tỷ lệ sinh đôi cao nhất và không có sự gia tăng đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, châu Âu, Bắc Mỹ và các quốc gia châu Đại Dương đang bắt kịp nhanh chóng. Khoảng 80% tổng số ca sinh đôi trên thế giới hiện đã ở Châu Á và Châu Phi. Theo các chuyên gia giải thích, tỷ lệ sinh đôi ở châu Phi cao như vậy là do số lượng cặp song sinh dị hợp tử cao được sinh ra ở đó - những cặp song sinh được sinh ra từ hai quả trứng riêng biệt. Điều này rất có thể là do sự khác biệt về gen giữa nhóm dân cư châu Phi và các nhóm dân cư khác.

Số lượng tuyệt đối các ca sinh đôi đã tăng lên ở khắp mọi nơi, ngoại trừ Nam Mỹ. Ở Bắc Mỹ và châu Phi, con số này đã tăng hơn 80%, và ở châu Phi, sự gia tăng này gần như hoàn toàn là do gia tăng dân số. Hầu hết sự gia tăng tỷ lệ sinh đôi đến từ các cặp song sinh dị hợp tử, trong khi có rất ít thay đổi về tỷ lệ song sinh đơn hợp tử (sinh đôi cùng trứng), và tỉ lệ này vẫn ổn định ở mức khoảng 4 trên 1000 ca sinh trên toàn thế giới.

Nguyên nhân nào cho sự gia tăng?

Bằng chứng từ nghiên cứu cho thấy sự sẵn có và sử dụng các biện pháp hỗ trợ y tế trong sinh sản ngày càng tăng là nguyên nhân chính của sự gia tăng tỉ lệ sinh đôi; và nó bắt đầu ở các quốc gia giàu có vào những năm 1970 và lan sang các nền kinh tế mới nổi ở châu Á và châu Mỹ Latinh trong những năm 1980 và 1990, đến những khu vực thịnh vượng hơn ở Nam Á và châu Phi sau năm 2000. Phụ nữ chọn lập gia đình muộn hơn, tăng cường sử dụng các biện pháp tránh thai và mức sinh thấp hơn nói chung cũng đóng một vai trò nhất định trong gia tăng tỉ lệ sinh đôi.

Theo các chuyên gia, nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt liên quan đến sự tăng trưởng tỷ lệ sinh đôi ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Do tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trong số các cặp song sinh đang giảm xuống, bằng chứng là các cặp song sinh được sinh ra trong giai đoạn thứ hai của nghiên cứu sống sót và lớn lên nhiều hơn so với những cặp sinh đôi vào đầu những năm 80. Tuy nhiên, vẫn cần phải chú ý hơn đến số phận của các cặp song sinh ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Đặc biệt ở khu vực cận Sahara, châu Phi, khoảng 2-3 nghìn cặp sinh đôi sẽ mất người đồng sinh trong năm đầu đời.

Trong khi tỷ lệ sinh đôi ở nhiều nước phương Tây hiện đang tiến gần đến các nước ở châu Phi – cận Sahara, vẫn có một sự khác biệt rất lớn về cơ hội sống sót của các cặp song sinh ở hai khu vực này. Các nhà nghiên cứu cho biết các quốc gia cần lưu trữ dữ liệu tốt hơn về các ca sinh đôi, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp – nơi có tỷ lệ tử vong ở các cặp song sinh cao nhất vì nhiều nơi còn thiếu các số liệu thống kê đáng tin cậy. Đây là hạn chế chính của nghiên cứu.

Sự kết hợp của nhiều yếu tố

Các dữ liệu hiện nay hầu hết cho biết tỉ lệ song sinh đang đạt mức đỉnh ở các nước thu nhập cao, đặc biệt là Châu Âu và Bắc Mỹ. Bản thân khu vực Châu Phi cũng sẽ là một trong những điểm nổi trội chính trong những thập kỷ tới.

Có thể thấy có sự kết hợp giữa các yếu tố và biện pháp như mức sinh nói chung thấp hơn (kéo theo tỉ lệ sinh đôi thấp), tuổi sinh cao hơn và hỗ trợ y tế về sinh sản nhiều hơn (dẫn đến tỉ lệ sinh đôi cao hơn), song sự hiệu quả thực chất của từng yếu tố là không chắc chắn hoàn toàn. Các nhà nghiên cứu đang xây những kế hoạch cập nhật kết quả của nghiên cứu với những dữ liệu chung để xem liệu tỷ lệ sinh đôi có thực sự đạt mức đỉnh và bắt đầu giảm ở các nước thu nhập cao hay không; cũng như những tác động của việc lan rộng MAR ở các nước thu nhập thấp và trung bình sẽ ảnh hưởng đến điều này như thế nào.

Tham khảo thêm thông tin tại: Thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới không?

 

Bình luận
Tin mới
  • 24/04/2024

    Ngủ không quá 5 giờ mỗi đêm khiến da chảy xệ và nhiều nếp nhăn gấp đôi

    Thiếu ngủ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây lão hoá da. Nghiên cứu cho thấy người ngủ không đủ giấc làm tăng gấp đôi nếp nhăn và sự chảy xệ da so với người có giấc ngủ chất lượng.

  • 24/04/2024

    Mẹo chăm sóc da dầu mùa Hè

    Nhiệt độ cao kết hợp với ánh nắng khiến tuyến bã nhờn trên da hoạt động mạnh mẽ, da đổ nhiều dầu và dễ nổi mụn. Một vài mẹo chăm sóc da dưới đây giúp bạn kiểm soát dầu nhờn trên da.

  • 24/04/2024

    Nỗi lo an toàn thực phẩm mùa nắng nóng

    Thời tiết nắng nóng càng làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Cùng với sự quản lý của cơ quan chức năng, người dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm, bởi nếu xuê xoa với bất kỳ vi phạm an toàn thực phẩm dù là nhỏ cũng gây hậu quả khôn lường.

  • 24/04/2024

    Tránh ăn gì khi bị viêm kết mạc để nhanh khỏi?

    Tuy chế độ ăn không giúp chữa khỏi viêm kết mạc (đau mắt đỏ) nhưng việc hạn chế ăn một số loại thực phẩm, đồ uống có thể giúp giảm bớt các triệu chứng và thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh hơn.

  • 24/04/2024

    Triệu chứng của ung thư buồng trứng

    Hiện nay, ngày càng nhiều phụ nữ bị mắc phải căn bệnh ung thư buồng trứng, vậy triệu chứng của bệnh là gì, hãy cũng tìm hiểu ở bài viết dưới đây.

  • 23/04/2024

    Các phương pháp giảm đau nửa đầu mạn tính

    Chứng đau nửa đầu mạn tính có thể phòng ngừa và được điều trị một cách triệt để. Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc và cũng như các phương pháp điều trị thích hợp giúp làm giảm các cơn đau nửa đầu mạn tính.

  • 23/04/2024

    Căng thẳng quá mức gây suy giảm nhiều chất dinh dưỡng trong cơ thể

    Căng thẳng mạn tính và kéo dài không chỉ ảnh hưởng sức khoẻ tinh thần mà còn khiến cơ thể có nguy cơ cạn kiệt nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu, ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch và sự phục hồi thể chất.

  • 23/04/2024

    7 mẹo giúp trẻ tránh xa đồ ăn vặt không tốt cho sức khỏe

    Trẻ em thường bị thu hút bởi đồ ăn vặt. Với bao bì đầy màu sắc và hương vị hấp dẫn, những món ăn nhẹ không lành mạnh này thường khiến trẻ thích thú và muốn ăn nhiều hơn.

Xem thêm