Ngộ độc do botulinum thường được gọi là "ngộ độc thịt" vì độc tố botulinum thường được tìm thấy trong các sản phẩm thịt chế biến, bảo quản không đúng cách, đặc biệt là thịt hộp.
Mặc dù thịt hộp là nguồn phổ biến, ngộ độc botulinum cũng có thể xảy ra từ các loại thực phẩm khác như rau củ đóng hộp, cá đóng hộp và thậm chí cả mật ong (đặc biệt nguy hiểm cho trẻ sơ sinh). Tuy nhiên, thịt vẫn là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất. Do đó, thuật ngữ "ngộ độc thịt" đã trở nên phổ biến để chỉ ngộ độc do botulinum, mặc dù nó có thể xảy ra từ nhiều nguồn thực phẩm khác nhau.
Hình ảnh vi khuẩn Clostridium botulinum. Nguồn ảnh: CDC Hoa Kỳ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đây là tình trạng ngộ độc thường do ăn phải độc tố thần kinh mạnh, độc tố botulinum, hình thành trong thực phẩm bị ô nhiễm.
Bào tử do vi khuẩn Clostridium botulinum (C.botulinum) tạo ra có khả năng chịu nhiệt và tồn tại rộng rãi trong môi trường và khi không có oxy, chúng nảy mầm, phát triển, sau đó bài tiết độc tố. Có 7 dạng độc tố botulinum riêng biệt, loại A-G. Bốn trong số này (loại A, B, E và hiếm khi là F) gây ra chứng ngộ độc thịt ở người. Loại C, D và E gây bệnh ở các loài động vật có vú khác, chim và cá.
WHO cũng cho biết, độc tố botulinum được hấp thụ qua thực phẩm chế biến không đúng cách, trong đó vi khuẩn hoặc bào tử sống sót, sau đó phát triển và sản sinh ra độc tố. Mặc dù chủ yếu là ngộ độc thực phẩm, ngộ độc botulinum ở người cũng có thể do nhiễm trùng đường ruột với C.botulinum ở trẻ sơ sinh, nhiễm trùng vết thương và do hít phải.
Đọc thêm: Độc tố Botulinum nguy hiểm như thế nào và cách phòng tránh | VIAM
Theo WHO, độc tố Botulinum là chất độc thần kinh và do đó ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Bệnh ngộ độc thịt do thực phẩm có đặc điểm là liệt mềm, lan xuống có thể gây suy hô hấp. Các triệu chứng ban đầu bao gồm mệt mỏi rõ rệt, yếu và chóng mặt, thường tiếp theo là mờ mắt, khô miệng, khó nuốt và nói. Nôn mửa, tiêu chảy, táo bón và sưng bụng cũng có thể xảy ra. Bệnh có thể tiến triển thành yếu ở cổ và cánh tay, sau đó các cơ hô hấp và cơ ở phần thân dưới bị ảnh hưởng. Không sốt và không mất ý thức.
Các triệu chứng không phải do chính vi khuẩn gây ra mà do độc tố do vi khuẩn tạo ra. Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 12 đến 36 giờ (trong phạm vi tối thiểu và tối đa là 4 giờ đến 8 ngày) sau khi tiếp xúc. Bệnh có thể gây tử vong ở 5 đến 10% các trường hợp.
C.botulinum là một loại vi khuẩn kỵ khí, nghĩa là nó chỉ có thể phát triển khi không có oxy. Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn botulinum xảy ra khi C.botulinum phát triển và sản sinh ra độc tố trong thực phẩm trước khi tiêu thụ. C.botulinum sản sinh ra bào tử và chúng tồn tại rộng rãi trong môi trường bao gồm đất, nước sông, nước biển.
Sự phát triển của vi khuẩn và sự hình thành độc tố xảy ra trong các sản phẩm có hàm lượng oxy thấp và một số kết hợp nhất định giữa nhiệt độ bảo quản và các thông số bảo quản. Điều này thường xảy ra nhất ở các loại thực phẩm được bảo quản sơ sài và trong các loại thực phẩm chế biến không đầy đủ, đóng hộp tại nhà hoặc đóng chai tại nhà.
C.botulinum sẽ không phát triển trong điều kiện có tính acid (pH nhỏ hơn 4,6) và do đó độc tố sẽ không hình thành trong thực phẩm có tính acid (tuy nhiên, độ pH thấp sẽ không làm phân hủy bất kỳ độc tố nào đã hình thành trước đó). Sự kết hợp giữa nhiệt độ bảo quản thấp và hàm lượng muối và/hoặc độ pH cũng được sử dụng để ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn hoặc sự hình thành độc tố.
Đọc thêm tại bài viết sau: Cách xử trí ngộ độc thực phẩm
Độc tố botulinum được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm như:
Rau bảo quản ít acid, chẳng hạn như đậu xanh, rau bina, nấm và củ cải đường; cá, bao gồm cá ngừ đóng hộp, cá lên men, cá muối và cá hun khói; các sản phẩm thịt, chẳng hạn như giăm bông và xúc xích. Thực phẩm liên quan khác nhau giữa các quốc gia và phản ánh thói quen ăn uống và quy trình bảo quản thực phẩm tại địa phương. Thỉnh thoảng, thực phẩm chế biến sẵn có liên quan.
Mặc dù bào tử của C.botulinum có khả năng chịu nhiệt nhưng độc tố do vi khuẩn phát triển từ bào tử trong điều kiện kỵ khí sẽ bị phá hủy khi đun sôi (ví dụ, ở nhiệt độ bên trong lớn hơn 85 °C trong 5 phút hoặc lâu hơn). Do đó, thực phẩm ăn liền trong bao bì ít oxy thường xuyên liên quan đến các trường hợp ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn botulinum.
Các mẫu thực phẩm liên quan đến các trường hợp nghi ngờ phải được lấy ngay lập tức, bảo quản trong các hộp đựng được niêm phong đúng cách và gửi đến phòng xét nghiệm để xác định nguyên nhân và ngăn ngừa các trường hợp tiếp theo.
Độc tố botulinum được tạo ra khi vi khuẩn phát triển trong thực phẩm bị ô nhiễm, đặc biệt là thực phẩm đóng hộp, đóng gói chân không hoặc lên men không đúng cách.
Phòng ngừa ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn botulism dựa trên thực hành tốt trong chế biến thực phẩm, đặc biệt là trong quá trình đun nóng/khử trùng và vệ sinh. Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn botulism có thể được ngăn ngừa bằng cách vô hiệu hóa vi khuẩn và bào tử của nó trong các sản phẩm đã được khử trùng bằng nhiệt (ví dụ, đã được thanh trùng) hoặc đóng hộp hoặc bằng cách ức chế sự phát triển của vi khuẩn và sản xuất độc tố trong các sản phẩm khác.
Các dạng sinh dưỡng của vi khuẩn có thể bị tiêu diệt bằng cách đun sôi nhưng các bào tử có thể vẫn sống sau khi đun sôi ngay cả trong vài giờ. Tuy nhiên, các bào tử có thể bị tiêu diệt bằng cách xử lý ở nhiệt độ rất cao như đóng hộp thương mại.
Thanh trùng nhiệt thương mại (bao gồm các sản phẩm thanh trùng đóng gói chân không và các sản phẩm hun khói nóng) có thể không đủ để tiêu diệt tất cả các bào tử và do đó, tính an toàn của các sản phẩm này phải dựa trên việc ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn và sản xuất độc tố. Nhiệt độ làm lạnh kết hợp với hàm lượng muối và/hoặc điều kiện acid sẽ ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn và sự hình thành độc tố.
Năm chìa khóa của WHO để có thực phẩm an toàn hơn đóng vai trò là cơ sở cho các chương trình giáo dục đào tạo người chế biến thực phẩm và giáo dục người tiêu dùng. Chúng đặc biệt quan trọng trong việc ngăn ngừa ngộ độc thực phẩm.
Mừng sinh nhật 7 tuổi, Phòng khám chuyên khoa dinh dưỡng VIAM - Viện Y học ứng dụng Việt Nam dành tặng khách hàng ưu đãi độc quyền diễn ra từ 1/4- 20/4 duy nhất tại VIAM clinic! Liên hệ ngay hotline 0935.18.3939 / 024.3633.5678 hoặc truy cập viamclinic.vn để đặt lịch ngay!
Nhiều loại trái cây tươi mát, thơm ngon chứa các đặc tính dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất thiết yếu giúp giảm nồng độ acid uric. Tìm hiểu một số loại trái cây giúp giảm acid uric một cách tự nhiên.
Khí hư loãng là bình thường và có thể là dấu hiệu của âm đạo khỏe mạnh. Âm đạo tiết ra khí hư để tự làm sạch và cũng tiết ra nhiều khí hư hơn vào thời điểm rụng trứng. Tuy nhiên, nếu màu sắc hoặc độ nhớt (độ đặc) của khí hư thay đổi, hoặc khí hư trong, loãng kèm theo các triệu chứng khác như ngứa hoặc đau ở âm đạo, thì đó có thể là dấu hiệu của một vấn đề mà bạn cần đến gặp bác sĩ.
Mùa thu mang đến cảm giác mát mẻ và hương vị ngọt ngào của nhiều loại quả chín mọng. Có một số loại quả mùa thu rất tốt cho người bị táo bón vì chúng chứa nhiều chất xơ, nước và các hợp chất tự nhiên tốt cho đường ruột.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn mạn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bệnh không chỉ gây đau đớn ở các khớp mà còn có thể lan rộng đến các cơ quan khác như tim, phổi, mắt, và da.
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.