Ngay cả khi nếu bà mẹ có một cân nặng khoẻ mạnh trong suốt thai kỳ đầu tiên, việc tăng cân giữa các lần mang thai sẽ khiến họ đối mặt với việc gia tăng nguy cơ tử vong cho đứa con thứ hai.
Theo Hiệp Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG), các chỉ số nhân trắc học của nhóm dân số thai phụ đã thay đổi một cách rõ rệt trong vòng ít nhất 10 năm trở lại đây, và ngày càng có nhiều phụ nữ thừa cân hoặc béo phì khi mang thai.
Điều này có thể ảnh hưởng tới cả sức khoẻ của bà mẹ lẫn con của họ; đã có rất nhiều mối liên quan giữa việc tăng cân quá mức trong thai kỳ và gia tăng cân nặng lúc sinh của trẻ đi kèm với việc khó giảm cân sau khi sinh. Ngược lại, cũng có nhiều mối liên hệ giữa việc tăng cân không đầy đủ và giảm cân nặng lúc sinh của trẻ, chính vì vậy mà tăng cân thích hợp trong thai kỳ đóng vai trò hết sức quan trọng.
Theo Mayo Clinic, Minnesota, Hoa Kỳ, cân nặng mà một thai phụ có thể tăng trong thai kỳ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cân nặng và chỉ số khối cơ thể (BMI) trước khi mang thai. Cân nặng gia tăng trong thai kỳ được khuyến cáo như sau:
Nhẹ cân (BMI nhỏ hơn 18,5): nên tăng 12,6 – 18 kg (28 – 40 lbs) trong thai kỳ.
Cân nặng bình thường (BMI 18,5 – 24,9): nên tăng 11,3 – 15,8 kg (25 – 35 lbs).
Thừa cân (BMI 25 – 29,9): nên tăng 6,8 – 11,3 kg (15 – 25 lbs).
Béo phì (BMI 30 hoặc hơn): nên tăng 4,9 – 9 kg (11 – 20 lbs).
Tuy nhiên, nếu phụ nữ mang song thai hoặc đa thai, họ sẽ cần tăng cân nhiều hơn.
Trong nghiên cứu mới nhất của mình, các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Sổ khai sinh Y khoa Thuỵ Điển, đánh giá hơn 450.000 phụ nữ sinh con đầu và con thứ 2 trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2012.
Nhóm nghiên cứu phân tích nguy cơ thai chết lưu – được định nghĩa là thai chết từ tuần thứ 28 trở đi – và tử vong trẻ nhũ nhi – được định nghĩa là tử vong trong năm đầu tiên sau sinh – đồng thời so sánh chúng với một sự thay đổi về BMI của bà mẹ giữa 2 lần mang thai.
Các kết quả cho thấy những trẻ có mẹ tăng cân hơn 4 đơn vị BMI – tương đương với gần 10,8 kg (24 lbs) ở phụ nữ Thuỵ Điển với chiều cao trung bình – giữa 2 lần mang thai có nguy cơ tử vong trong 4 tuần lễ đầu tiên sau sinh hơn tới 50%, so với những trẻ có mẹ có một cân nặng ổn định hơn.
Các nhà nghiên cứu cho biết những kết quả này vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi điều chỉnh các yếu tố khác như tuổi mẹ, trình độ học vấn và hút thuốc lá – tất cả những yếu tố này đều được biết tới làm ảnh hưởng tới nguy cơ thai chết lưu. Những nguyên nhân gây tử vong cho trẻ nhũ nhi bao gồm các dị tật bẩm sinh, ngạt khi sinh, nhiễm trùng và hội chứng đột tử trẻ nhũ nhi (Sudden infant death syndrome – SIDS).
Hơn thế nữa, những nguy cơ thai chết lưu tăng lên cùng với sự gia tăng cân nặng, ngay cả các bà mẹ có một BMI bình thường trong suốt thai kỳ đầu tiên cũng gia tăng nguy cơ tử vong nhũ nhi khi tăng trọng lượng cơ thể.
Cụ thể là, nguy cơ tử vong nhũ nhi gia tăng hơn 27% cho những phụ nữ tăng cân từ 5,9 đến 10,8 kg (13 – 24 lbs), và nguy cơ này tăng hơn đến 60% cho những bà mẹ tăng cân hơn 10,8 kg (24lbs), so với những bà mẹ có cân nặng ổn định. Dựa trên các kết quả của mình, các nhà nghiên cứu cho rằng sự gia tăng trên BMI ở phụ nữ có cân nặng khoẻ mạnh có thể biểu hiện cho sự gia tăng khối lượng mỡ nhiều hơn ở phụ nữ béo phì và do đó có thể đối diện với một nguy cơ cao hơn.
GS. Cnattingius phát biểu về các kết quả của mình như sau: “Điều này rõ ràng có liên quan mật thiết tới sức khoẻ cộng đồng. Gần 1/5 phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi tăng cân giữa các lần mang thai đủ để gia tăng nguy cơ thai chết lưu lên 30 – 50%, và khả năng sinh con có thể tử vong ở lứa tuổi nhũ nhi lên 27 – 60%, nếu họ có một cân nặng khoẻ mạnh trong thai kỳ đầu tiên”.
Đồng tác giả, GS. Eduardo Villamor, đến từ Đại học Michigan, Trường Sức khoẻ cộng đồng ở Ann Arbor, Hoa Kỳ, bổ sung thêm: “Tình trạng thừa cân và béo phì ở thai phụ đã đạt tới mức dịch. Hơn một nửa số phụ nữ ở Hoa Kỳ và 1 trong 3 phụ nữ ở Thuỵ Điển hoặc là thừa cân hoặc béo phì khi bắt đầu mang thai”. GS cho rằng các phát hiện của họ “nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục phụ nữ duy trì một cân nặng khoẻ mạnh trong suốt thai kỳ và giảm cân nặng dư thừa trước khi mang thai như là một cách để cải thiện tỉ lệ sống còn của trẻ nhũ nhi”.
Để hạn chế tình trạng loãng xương cơ thể cần cung cấp đủ vitamin D và canxi theo nhu cầu của từng lứa tuổi qua chế độ ăn khoa học, đủ dinh dưỡng và giàu canxi.
Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí đã trở thành một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe con người ở mọi lứa tuổi. Đặc biệt, trẻ nhỏ đang ở giai đoạn phát triển thể chất và thần kinh lại là nhóm đối tượng dễ tổn thương nhất.
Quả vải tuy ngon miệng và bổ dưỡng nhưng cũng cần đi lưu ý một số điều khi ăn để đảm bảo an toàn cho sức khỏe, đặc biệt là với một số đối tượng.
Thời tiết thất thường có khiến bạn cảm thấy khó chịu. Trời mưa bạn sẽ cảm thấy buồn chán còn trời nắng bạn sẽ cảm thấy vui tươi hơn. Bạn đã bao giờ thắc mắc tại sao cảm xúc của bạn luôn thay đổi khi thời tiết thay đổi hay chưa? Đặc biệt là vào lúc giao mùa? Vậy hãy cùng Viện Y học ứng dụng tìm hiểu thêm với bài viết dưới đây
Ăn rau quả nhiều màu sắc hay còn gọi là 'ăn cầu vồng' không chỉ đơn giản là cách trang trí món ăn hấp dẫn mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút Dengue gây ra, lây lan chủ yếu qua vết đốt của muỗi Aedes aegypti. Mặc dù bệnh có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, trẻ nhỏ lại là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương do hệ miễn dịch còn non yếu.
Mùa hè với những ngày nắng nóng kéo dài không chỉ là thời điểm để thư giãn mà còn là cơ hội tuyệt vời để người cao tuổi tham gia các hoạt động thể thao dưới nước. Đây là hình thức vận động nhẹ nhàng, ít gây áp lực lên cơ thể, đồng thời mang lại nhiều lợi ích sức khỏe vượt trội.
Đau thắt lưng là một trải nghiệm phổ biến đối với nhiều người. Nó thường có thể dẫn đến đau, ngứa ran hoặc tê ở phần thân dưới. Có nhiều nguyên nhân gây đau thắt lưng, phổ biến nhất bao gồm căng cơ, tư thế xấu và tuổi tác.