Theo International Business Times, năm 2011, Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư (IARC) phân loại bức xạ điện thoại di động như một chất có thể gây ung thư cho con người, thuộc nhóm 2B. Việc phân loại này chủ yếu dựa trên các nghiên cứu về dân số học.
Năm 2010, L. Hardell, nhà dịch tễ người Thụy Điển, kết hợp với tổ chức nghiên cứu môi trường và phóng xạ Interphone tiến hành một nghiên cứu do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ về khả năng gây ung thư của điện thoại di động. Kết quả cho thấy, những người sử dụng điện thoại di động 30 phút mỗi ngày trong 10 năm làm nguy cơ phát triển u thần kinh đệm, một bệnh ung thư não ác tính, tăng lên khoảng 40-170%.
Năm 2013, trung tâm Cerenat, Pháp, xác nhận các quan sát của Interphone và Hardell hoàn toàn đúng. Năm 2015, nghiên cứu của Đại học Jacobs Bremen, Đức, tiến hành trên động vật chỉ ra rằng, bức xạ điện thoại di động làm tăng tác động gây ung thư của các hóa chất.
Nhưng theo kết quả nghiên cứu của IARC năm 2012, số bệnh nhân mắc ung thư não không thay đổi hoặc chỉ tăng nhẹ trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2008, bất chấp sự gia tăng đáng kể số người dùng điện thoại di động trong hơn 20 năm qua.
Như vậy, có sự mâu thuẫn giữa các bằng chứng cho thấy mức độ gia tăng nguy cơ mắc ung thư não khi dùng điện thoại di động và tỷ lệ mắc ung thư não trong dân cư hầu như không thay đổi.
Nhiều học giả cho rằng vẫn còn quá sớm để đưa ra kết luận từ các nghiên cứu về mối liên hệ giữa ung thư não và bức xạ điện từ. Nguyên nhân là do bệnh ung thư có thể tồn tại ở trạng thái tiềm ẩn trong hàng chục năm, và con người chỉ mới bắt đầu sử dụng điện thoại di động phổ biến trong thời gian gần đây.
Theo nghiên cứu của IARC tiến hành trên động vật năm 2011, bản thân bức xạ điện thoại di động không gây ung thư, nhưng nó làm tăng nguy cơ phát triển bệnh ở những con vật tiếp xúc với liều lượng thấp các chất hóa học gây ung thư.
Do đó, không phải tất cả người dùng điện thoại di động đều mắc ung thư não. Bức xạ điện thoại chỉ làm tăng tốc sự phát triển của bệnh khi tiếp xúc với hóa chất gây ung thư hay đột biến gene tự phát.
Để bảo vệ đôi môi, chúng ta thường sử dụng son dưỡng môi, giúp duy trì độ ẩm và ngăn ngừa tình trạng khô môi. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm thương mại chứa các chất hóa học, một số nguyên liệu tự nhiên có thể được tận dụng như các biện pháp khắc phục tại nhà an toàn và hiệu quả.
Bạn có thường xuyên quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen hay vị trí chìa khóa không? Trí nhớ suy giảm là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận nó.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Gừng thường được coi là nguyên liệu chính trong các phương pháp tự nhiên để giảm bớt các vấn đề về tiêu hóa. Mặc dù gừng là một lựa chọn tốt nhưng có một số loại thực phẩm khác có thể hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả hơn.
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.