Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Ðối phó với trầm cảm đối tượng nào dễ bị trầm cảm?

Bệnh trầm cảm đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện đại. Hậu quả của bệnh không chỉ là chi phí y tế mà còn có thể gây nhiều bất ổn trong xã hội.

Bệnh trầm cảm đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện đại. Hậu quả của bệnh không chỉ là chi phí y tế mà còn có thể gây nhiều bất ổn trong xã hội. Thực tế, các vụ tự sát, giết người hàng loạt gây rúng động thế giới, không ít thủ phạm bị bệnh này. Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về trầm cảm cùng những hệ lụy của nó, chúng tôi giới thiệu loạt bài của PGS.TS. Bùi Quang Huy - Chủ nhiệm Khoa Tâm thần Bệnh viện Quân y 103.

Rối loạn trầm cảm là một nhóm bệnh bao gồm: trầm cảm chủ yếu, loạn khí sắc, trầm cảm do một chất và trầm cảm do một bệnh thực tổn.

Rối loạn trầm cảm chủ yếu được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm, bệnh nhân phải có ít nhất 5 triệu chứng chủ yếu và hay gặp, trong đó có ít nhất một trong hai triệu chứng chủ yếu là khí sắc giảm và mất hầu hết các hứng thú/sở thích. Các giai đoạn trầm cảm phải kéo dài ít nhất hai tuần. Bệnh nhân không có tiền sử lạm dụng chất (rượu, ma túy, thuốc) và chấn thương sọ não.

Seretonin có vai trò quan trọng trong căn nguyên gây bệnh trầm cảm.

Loạn khí sắc được đặc trưng bởi khí sắc giảm phối hợp với một số triệu chứng trầm cảm mức độ nhẹ, kéo dài liên tục ít nhất 2 năm, trong đó không có một giai đoạn nào dài trên 2 tháng mà bệnh nhân không còn các triệu chứng của trầm cảm.

Trầm cảm do một chất được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm là hậu quả trực tiếp của việc sử dụng một chất (rượu, ma  túy, corticoid).

Trầm cảm do một bệnh cơ thể được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm là hậu quả trực tiếp của một bệnh cơ thể gây ra (viêm loét dạ dày - hành tá tràng, viêm đa khớp dạng thấp, tăng huyết áp, đái tháo đường...).

Rối loạn trầm cảm được chia thành một giai đoạn duy nhất (chưa tái phát) hoặc nhiều giai đoạn (đã tái phát). Trong mỗi giai đoạn trầm cảm, có thể có các mức độ sau: Mức độ nhẹ, vừa, nặng, có loạn thần, lui bệnh không hoàn toàn và lui bệnh hoàn toàn.

Các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm đã cho thấy nguy cơ bị bệnh này trong toàn bộ cuộc đời là 15% - 25% cho nữ và 5% - 12% cho nam. Ở hầu hết các quốc gia, không phân biệt về văn hóa, đều thấy tỷ lệ trầm cảm ở nữ cao hơn ở nam từ 1,5 đến 3 lần. Lý do của sự khác biệt này có thể do khác nhau về hormon và do phụ nữ phải sinh con.

Ở tuổi thiếu niên thì nam và nữ có tỷ lệ trầm cảm như nhau. Trầm cảm có thể gặp ở bất cứ lứa tuổi nào, từ vị thành niên đến người già, nhưng trầm cảm hay gặp nhất là độ tuổi 40. Tỷ lệ bệnh nhân trầm cảm là thanh niên và vị thành niên đang tăng lên, nguyên nhân là do lạm dụng rượu, ma túy và đặc biệt là game điện tử. Nhìn chung trầm cảm hay gặp hơn ở người còn độc thân, góa, li dị. Các công trình nghiên cứu gần đây chứng minh rằng kết hôn làm cho tình trạng trầm cảm giảm đi ở cả hai giới.

Nguyên nhân gây trầm cảm

Yếu tố sinh học

Các chất dẫn truyền thần kinh trung ương: Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy các thay đổi về nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh trung ương như serotonin, noradrenalin, dopamin... trong máu, nước tiểu và dịch não tủy của bệnh nhân trong giai đoạn trầm cảm. Các bất thường này cho phép chúng ta nghĩ rằng giai đoạn trầm cảm là sự phối hợp bất thường của các amin sinh học.

Noradrenalin: Trong giai đoạn trầm cảm, mật độ thụ cảm thể beta adrenergic giảm sút đáng kể so với người bình thường.

Vai trò của gene di truyền: Gene di truyền đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của bệnh trầm cảm. Nhưng các gene di truyền tuân theo một cơ chế rất phức tạp. Tuy gene di truyền là rất quan trọng, nhưng không thể phủ nhận vai trò của yếu tố tâm lý xã hội ở một số trường hợp trầm cảm.

Các gene di truyền điều tiết việc sản xuất serotonin ở não. Do các gene này làm việc không tốt nên não người bệnh sản xuất không đủ lượng serotonin cần thiết cho nhu cầu hàng ngày (chỉ còn bằng 30-70% người bình thường) khiến sự dẫn truyền thần kinh trong tổ chức não bị rối loạn.

Trầm cảm do nhiều gene bệnh gây ra chứ không phải do một gene đơn lẻ. Người nào mang càng nhiều gene bệnh thì sẽ có khởi phát bệnh càng sớm và triệu chứng càng đa dạng.

Yếu tố xã hội

Các stress từ môi trường sống: Yếu tố stress chỉ có vai trò trong khởi phát của giai đoạn trầm cảm đầu tiên mà thôi. Chúng được coi là yếu tố thuận lợi cho khởi phát của trầm cảm chứ không phải là nguyên nhân gây ra trầm cảm. Từ cơn trầm cảm thứ hai trở đi, vai trò của yếu tố stress là không cần thiết (bệnh tự tái phát mà không cần có stress).

Yếu tố chấn thương tâm lý quan trọng nhất gây ra giai đoạn trầm cảm được các tác giả thừa nhận là mất bố (mẹ) trước năm 11 tuổi. Yếu tố chấn thương tâm lý thường gặp nhất cho giai đoạn trầm cảm là mất vợ (chồng). Yếu tố khác là thất nghiệp cũng hay gặp cho giai đoạn này.

PGS.TS. Bùi Quang Huy - Theo Sức khỏe & Đời sống
Bình luận
Tin mới
  • 18/08/2025

    Sức khỏe tinh thần người cao tuổi tại Việt Nam: thực trạng, thách thức và giải pháp hướng tới một xã hội già hóa khỏe mạnh

    Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.

  • 18/08/2025

    Tiêu chảy mùa mưa lũ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh

    Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.

  • 17/08/2025

    8 nguyên nhân gây ra tình trạng răng khấp khểnh

    Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.

  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

Xem thêm