Không chỉ là nguồn cung cấp vitamin quý giá, trái cây còn như một loại thuốc giúp trẻ em phòng tránh và điều trị nhiều loại bệnh trong tất cả các mùa. Vì thế mà các bà mẹ luôn coi trái cây là khẩu phần ăn không thể thiếu của trẻ trong ngày…
Trái cây không phải qua quá trình nấu nướng nên giữ được hàm lượng vitamin và khoáng chất cao. Nhưng theo BS Phan Bích Nga (Viện Dinh dưỡng Quốc gia), mỗi loại trái cây đều có đặc thù khác nhau, vì thế khi cho bé ăn các bà mẹ nên cho bé ăn một cách khoa học.
Cho bé ăn trái cây thế nào?
Mỗi ngày, mẹ chỉ nên cho trẻ khoảng 113g đến 170g nước trái cây và thường xuyên thay đổi thực đơn nước trái cây cho bé. Bé 2, 3 tháng tuổi nên cho uống nước trái cây, bé từ 4 tháng tuổi trở lên có thể ăn, uống sinh tố và hơn nữa là trái cây dạng nguyên chất, tùy theo độ tuổi và bộ máy tiêu hóa của bé. Mẹ hãy cho bé ăn trái cây ngay khi vừa cắt hay ép, vì nếu để lâu chúng sẽ có tính axit và mất nhiều vitamin và thường xuyên thay đổi trái cây để bé không bị “nghiện” hoặc “ám ảnh”. Mẹ nên cho bé uống nước ép trái cây hoặc rau quả 100%, không dùng loại có sẵn hay đóng hộp.
Thời điểm tốt nhất để cho bé ăn trái cây là khoảng thời gian giữa hai bữa ăn, hoặc sau khi bé ngủ trưa dậy. Mẹ không nên cho bé ăn trái cây trước hoặc ngay sau khi bé ăn no. Đặc biệt, khi bé uống sữa, sau 1 giờ mẹ mới nên cho bé ăn cam, quýt, vì chất chua (axit) trong loại hoa quả này khi gặp protein trong sữa có thể bị ngưng động, kết tủa, ảnh hưởng đến quá trình cơ thể bé hấp thụ chất dinh dưỡng từ cam, quýt.
Ảnh minh họa - Internet
Nên cho bé ăn trái cây nào?
Khi bắt đầu tập ăn trái cây, bạn nên cho trẻ ăn táo. Táo cung cấp các loại vitamin A, C, E… Mẹ có thể ép táo lấy nước cho trẻ uống để phòng ngừa những bệnh về đường hô hấp. Chất xơ của táo còn giúp ngăn ngừa táo bón.
Một loại quả dành cho những trẻ ít tháng tuổi đó là đu đủ. Đây là loại trái cây có chứa vitamin C (100g đu đủ chứa 54mg vitamin C) và nhiều enzyme rất phù hợp cho hoạt động của hệ tiêu hóa ở trẻ nhỏ.
Tiếp đến là các loại cam quýt. Loại quả này chứa nhiều vitamin C có tác dụng giúp tăng cường khả năng miễn dịch của trẻ.100g quýt chứa 55 mg vitamin C, 100g cam chứa 40mg… trong khi nhu cầu vitamin C ở trẻ 1 tuổi là khoảng 30mg/ngày. Một ngày mẹ có thể cho bé ăn 1 quả quýt 60g là có thể đảm bảo nhu cầu vitamin C mỗi ngày cho trẻ. Các loại quả chứa nhiều vitamin C nên ăn sau bữa ăn chính.
Khi bé được 6 tháng tuổi mẹ có thể cho bé ăn kiwi. Một trái kiwi cung cấp nhiều gấp 2 lượng sinh tố C cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày. Hàm lượng chất xơ và chất nhầy đặc biệt của nó rất tốt cho trẻ, giúp nhuận tràng, nhất là trẻ bị táo bón.
Quả chuối được cho là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng tuyệt vời và an toàn dành cho trẻ nhỏ, cung cấp chất dinh dưỡng, vitamin B và giúp trẻ tiêu hóa tốt, nhuận tràng.
Ngoài ra mẹ có thể cho bé ăn nho, xoài, dưa hấu... Nho chứa nhiều hợp chất tăng sức đề kháng cho cơ thể, được gọi là polyphenol, phần lớn hợp chất này tập trung ở vỏ và có ở nhiều nho đen hơn nho xanh và rất giàu kali và vitamin C (100g nho ta có chứa 45mg vitamin C). Xoài cũng là loại quả chứa nhiều vitamin C ngang hàng với cam quýt. Đồng thời là loại trái cây chứa nhiều tiền vitamin A (bêta carotene) đóng vai trò quan trọng đối với thị lực và tăng khả năng kháng viêm cho cơ thể. Còn khi thời tiết nóng bức, dưa hấu là loại quả có tác dụng giải khát rất tốt dành cho trẻ em. Dưa hấu có tính mát, lại nhuận tràng, rất tốt cho trẻ khi bị táo bón.
Để bé thích trái cây
Trái cây khi chín thường rất thơm ngon và hấp dẫn, nhưng nhiều bé lại rất sợ trái cây do bị mẹ ép ăn nhiều, hoặc do bé chưa quen với hương vị của chúng. Để bé hào hứng với trái cây, việc đầu tiên là mẹ có thể tập cho bé ăn trái cây bằng cách cho bé ăn loại trái ngọt giống sữa hoặc trái cây xay. Bé lớn hơn, hãy để bé tham gia vào việc lựa chọn loại trái cây bé thích và hãy cắt trái cây thành những hình thù đáng yêu, sống động.
Mẹ hãy xay trái cây thành những cốc sinh tố màu sắc cuốn hút để bé thích thú. Mẹ cũng cần làm gương cho trẻ, khiến bé yêu chịu ăn hoa quả và rau xanh khi chính mẹ nồng nhiệt với những món bổ dưỡng này.
Hà Nội, ngày 27/11/2025 – Kết quả nghiên cứu mới nhất do Viện Y học ứng dụng Việt Nam thực hiện được công bố tại Hội thảo khoa học “Thực trạng dinh dưỡng, sức khỏe người cao tuổi ở một số thành phố lớn và đề xuất một số giải pháp” đã chỉ ra những thách thức lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT) tại các đô thị lớn.
Chế độ ăn kiêng low-carb (ít carbohydrate) đã chứng minh được hiệu quả trong việc giảm cân nhanh chóng và cải thiện nhiều chỉ số sức khỏe. Tuy nhiên, chìa khóa để thành công không phải là việc cắt giảm carb một cách mù quáng, mà là thực hiện một cách thông minh, bền vững để biến nó thành một lối sống lâu dài.
Ung thư đại trực tràng là căn bệnh phổ biến và gây tử vong cao trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng cũng nằm trong top năm loại ung thư gây tử vong hàng đầu. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh có thể giảm đáng kể thông qua các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Bài viết này sẽ đưa ra lời khuyên thiết thực để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, bao gồm điều chỉnh chế độ ăn uống, tăng cường vận động và sàng lọc định kỳ, giúp bạn chủ động bảo vệ sức khỏe.
Loãng xương (osteoporosis) là một bệnh lý phổ biến thường gặp ở người cao tuổi gặp cả ở nam và nữ . Do đó, việc chuẩn đoán sớm, theo dõi và kiểm soát loãng xương là điều rất thiết, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe nhưng lại gây triệu chứng khó chịu cho nhiều người mắc hội chứng ruột kích thích.
Tuổi 50 được xem là giai đoạn “chín muồi” của cuộc đời – nhưng cũng là thời điểm nhiều bệnh lý mạn tính bắt đầu xuất hiện. Nếu không chú ý chăm sóc, các vấn đề sức khỏe âm thầm tiến triển có thể làm giảm chất lượng cuộc sống và rút ngắn tuổi thọ.
Mùa cúm đến, câu hỏi "Liệu con tôi bị cúm A có nên đi học không?" luôn là nỗi băn khoăn của nhiều phụ huynh. Quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ hồi phục của trẻ mà còn tác động trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng trường học.
Bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 (MEN 1) là một bệnh lý hiếm gặp. Bệnh chủ yếu gây ra các khối u ở các tuyến sản xuất hormone hay còn được gọi là các tuyến nội tiết. Bệnh cũng có thể gây ra các khối u ở ruột non và dạ dày. Một tên gọi khác của bệnh là hội chứng Wermer. Cùng tìm hiểu về bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 qua bài viết sau đây!