Ngày 14/2, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã họp khẩn liên quan tới đợt bùng phát của virus Marburg ở Guinea Xích đạo tại Trung Phi. Đợt bùng dịch này đã làm 9 người thiệt mạng và 16 ca nghi nhiễm. Marburg có khả năng lây nhiễm cao.
Thuộc cùng họ virus với Ebola, Marburg được coi là cực kỳ nguy hiểm và có thể gây ra một dạng sốt xuất huyết do virus, dẫn đến chảy máu mũi, miệng hoặc các bộ phận cơ thể khác. Các triệu chứng khác bao gồm mất nước, buồn nôn, nôn, đau họng và đau bụng. Nạn nhân có thể tử vong trong vòng vài giờ.
Bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg cực kỳ nguy hiểm, tỷ lệ tử vong.
(Ảnh: Maharastra Times)
Theo WHO, tỷ lệ tử vong khi nhiễm mầm bệnh từ 24% tới tối đa 88% trong các đợt bùng dịch trước đó, tùy vào chủng của virus và phương thức kiểm soát dịch bệnh ở từng khu vực. Năm 2004, virus tấn công Angola và lây nhiễm cho 252 người, làm khoảng 90% số ca bệnh thiệt mạng.
Tới nay, chưa có vaccine hoặc liệu pháp kháng virus được phê duyệt để điều trị bệnh.
Tại Việt Nam, theo luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm, bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg được xếp vào các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A (trong đó có bại liệt, cúm A(H5N1), bệnh dịch hạch, đậu mùa, sốt xuất huyết do virus Ebola, Lassa, bệnh sốt Tây sông Nile, bệnh Covid-19…)
Theo CDC Hoa Kỳ, bệnh do virus Marburg là một bệnh sốt xuất huyết hiếm gặp nhưng nghiêm trọng ảnh hưởng đến cả người và động vật linh trưởng. Bệnh do virus Marburg gây ra, một loại virus RNA độc nhất về mặt di truyền (hoặc từ động vật) thuộc họ filovirus. Virus Ebola cũng thuộc này.
Virus Marburg lần đầu tiên được phát hiện trên người vào năm 1967. Vật chủ chứa virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi, Rousettus aegyptiacus. Dơi ăn quả bị nhiễm virus Marburg không có dấu hiệu bệnh tật rõ ràng. Các loài linh trưởng (bao gồm cả con người) có thể bị nhiễm virus Marburg và có thể phát triển thành bệnh nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong cao.
Virus Marburg không lây qua không khí, khí dung hay giọt bắn như SARS-CoV-2 và các bệnh lây truyền qua đường hô hấp phổ biến mà chủ yếu thông qua dịch tiết cơ thể và đường máu, nếu cơ thể người tiếp xúc trực tiếp.
Virus lây lan qua tiếp xúc (chẳng hạn như qua vết thương trên da hoặc niêm mạc ở mắt, mũi hoặc miệng) với:
- Máu hoặc chất dịch cơ thể (nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, phân, chất nôn, sữa mẹ, nước ối và tinh dịch) của người bị bệnh hoặc chết vì bệnh do virus Marburg.
- Các đồ vật bị nhiễm chất dịch cơ thể của người bị bệnh hoặc đã chết vì bệnh do virus Marburg (chẳng hạn như quần áo, khăn trải giường, kim tiêm và thiết bị y tế).
Không có bằng chứng nào cho thấy virus Marburg có thể lây lan qua quan hệ tình dục hoặc qua các tiếp xúc khác với dịch âm đạo của phụ nữ bị bệnh.
Sự lây lan của virus giữa mọi người đã xảy ra trong môi trường gần gũi và giữa những người tiếp xúc trực tiếp. Một ví dụ phổ biến là thông qua những người chăm sóc tại nhà hoặc trong bệnh viện (lây truyền bệnh viện).
Phơi nhiễm trong phòng thí nghiệm cũng có thể xảy ra khi nhân viên phòng thí nghiệm xử lý virus Marburg còn sống.
Sau thời gian ủ bệnh 2-21 ngày, các triệu chứng khởi phát đột ngột với các biểu hiện sốt, ớn lạnh, nhức đầu và đau cơ. Khoảng ngày thứ 5 sau khi xuất hiện các triệu chứng, có thể xuất hiện ban dát sẩn, nổi rõ nhất trên thân (ngực, lưng, bụng). Buồn nôn, nôn, đau ngực, đau họng, đau bụng và tiêu chảy có thể xuất hiện.
Các triệu chứng ngày càng trở nên nghiêm trọng và có thể bao gồm vàng da, viêm tụy, sụt cân nghiêm trọng, mê sảng, sốc, suy gan, xuất huyết ồ ạt và rối loạn chức năng đa cơ quan.
Chẩn đoán lâm sàng bệnh do virus Marburg có thể khó khăn. Nhiều dấu hiệu và triệu chứng của bệnh tương tự như các bệnh truyền nhiễm khác (chẳng hạn như sốt rét hoặc sốt thương hàn) hoặc sốt xuất huyết do virus có thể lưu hành trong khu vực (chẳng hạn như sốt Lassa hoặc Ebola).
Tỷ lệ trường hợp tử vong đối với bệnh do virus Marburg là 23-90%.
Mọi người có thể có nguy cơ tiếp xúc với virus Marburg nếu họ tiếp xúc gần với:
- Dơi ăn quả châu Phi (Rousettus aegyptiacus - vật chủ chứa virus Marburg) hoặc nước tiểu và/hoặc chất bài tiết của chúng.
- Người mắc bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg.
- Loài linh trưởng không phải người nhiễm virus Marburg.
Nguy cơ phơi nhiễm có thể cao hơn đối với những du khách đến thăm các vùng dịch lưu hành ở châu Phi, những người có tiếp xúc với dơi ăn quả (Rousettus aegyptiacus) hoặc đi vào các hang động hoặc hầm mỏ có những loài dơi này sinh sống.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Sự khác biệt giữa dịch bệnh và đại dịch.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.