Câu hỏi: Vi rút gây bệnh COVID-19 và cúm giống nhau như thế nào?
Thứ nhất, COVID-19 và cúm đều có biểu hiện bệnh tương tự nhau: 2 loại virus này đều gây nên bệnh của đường hô hấp, biểu hiện ở nhiều mức độ từ không có triệu chứng tới nhẹ, nặng và tử vong.
Thứ hai, cả hai đều có thể lây lan bằng cách tiếp xúc, qua giọt bắn và đồ vật truyền bệnh. Do vậy, các biện pháp vệ sinh cá nhân, vệ sinh hô hấp như: vệ sinh tay, ý thức giữ vệ sinh đường hô hấp tốt (che miệng và mũi khi ho, hắt hơi bằng khuỷu tay áo hoặc khăn giấy và vứt bỏ khăn giấy ngay sau khi sử dụng vào thùng rác có nắp đậy, rửa tay sau khi ho, hắt hơi) là những hành động vô cùng quan trọng để ngăn ngừa lây lan.
Ảnh minh họa: Cách làm đúng khi ho, hắt hơiCâu hỏi: Vi rút gây bệnh COVID-19 và cúm khác nhau như thế nào?
Tốc độ lây lan là điểm khác nhau quan trọng nhất giữa 2 loại virus này. Cúm có thời gian ủ bệnh trung bình ngắn hơn (Thời gian ủ bệnh là thời gian từ lúc nhiễm bệnh tới lúc xuất hiện triệu chứng); thời gian xuất hiện các trường hợp liên tiếp ngắn hơn so với vi rút gây bệnh COVID-19. Trung bình, thời gian xuất hiện các trường hợp liên tiếp nhau từ 1 nguồn bệnh của COVID-19 là khoảng 5-6 ngày, trong khi cúm là khoảng 3 ngày. Điều này đồng nghĩa với việc khả năng lây lan của cúm nhanh hơn so với vi rút gây bệnh COVID-19.
Hơn nữa, sự lây truyền của cúm thường trong 3-5 ngày đầu tiên của bệnh và có thể lây truyền ngay từ trước khi xuất hiện triệu chứng cúm (con đường lây truyền chính của cúm). Trong khi, những bằng chứng cho đến thời điểm hiện tạ cho thấy, những người chưa xuất hiện các triệu chứng của bệnh COVID-19 dường như không phải là nguồn lây truyền bệnh.
Hệ số lây nhiễm cơ bản R0 – chỉ số khả năng lây truyền virus từ một cá thể cho nhiều người khác và khiến họ nhiễm bệnh – của vi rút gây bệnh COVID-19 đang được biết là từ 2 đến 2,5 – cao hơn nhiều so với cúm. Tuy nhiên, việc ước lượng chỉ số này cho cả 2 nhóm virus là không tương đồng mà theo khoảng thời gian cụ thể và riêng biệt cho từng loại, nên việc so sánh chính xác với nhau còn nhiều khó khăn.
Trẻ nhỏ là nhóm quan trọng trong việc lây truyền virus cúm trong cộng đồng. Nhưng đối với COVID-19, các dữ liệu ban đầu đều chỉ ra rằng trẻ nhỏ ít bị ảnh hưởng hơn so với người lớn, và nhóm tuổi từ 0-19 tuổi dường như rất ít bị tấn công. Dữ liệu từ các nghiên cứu tại Trung Quốc đa phần cho thấy trẻ nhỏ nếu bị nhiễm bệnh thì là lây nhiễm từ người lớn, thay vì ngược lại.
Mặc dù triệu chứng bệnh của 2 nhóm virus là tương đối giống nhau, nhưng tỉ lệ các ca bệnh nặng lại là khác nhau. Với COVID-19, số liệu cho thấy 80% các trường hợp mắc bệnh là có biểu hiện triệu chứng mức độ nhẹ hoặc không biểu hiện gì, 15% ở mức nặng và cần sự hỗ trợ của oxy và 5% ở mức nghiêm trọng, cần can thiệp hỗ trợ thở. Tỉ lệ bệnh nặng và nghiêm trọng cao hơn so với những gì quan sát được ở nhiễm cúm.
Những người có nguy cơ nhiễm cúm nặng nhất là trẻ em, phụ nữ có thai, người cao tuổi, người mắc bệnh mãn tính và những người có hệ miễn dịch suy giảm. Đối với COVID-19, những gì chúng ta biết ở thời điểm hiện tại là nhóm người cao tuổi và có các bệnh tiềm ẩn, mãn tính sẽ làm tăng nguy cơ bệnh nặng.
Tỉ lệ tử vong do COVID-19 cao hơn so với cúm. Mặc dù tỉ lệ tử vong thực sự của bệnh cần thêm nhiều thời gian để hiểu rõ, nhưng đến thời điểm hiện tại, dựa trên số ca tử vong được báo cáo trên tổng số ca nhiễm bệnh cho thấy tỉ lệ này đang trong khoảng 5% trên toàn thế giới. Đối với cúm, tỉ lệ này thường dưới 0,1%. Tuy nhiên, việc tỉ lệ tử vong cao còn dựa vào khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Câu hỏi: Có biện pháp can thiệp sẵn cho COVID-19 và cúm?
Hiện tại, dù đã có một số phương pháp điều trị đang được thử nghiệm và hơn 20 loại vaccine đang được phát triển, nhưng vẫn chưa có chính xác một phương pháp hay vaccine nào đặc hiệu cho COVID-19. Đối với Cúm, đã có thuốc kháng virus và vaccine cho cúm. Tuy việc sử dụng vaccine cúm cho điều trị COVID-19 là không có hiệu quả, nhưng khuyến nghị được đưa ra là nên tiêm vaccine cúm hàng năm là cần thiết để phòng ngừa cúm.

Nhờ hiệu quả của thuốc kháng virus (ARV), ngày càng nhiều trẻ nhiễm HIV có thể phát triển, học tập và sinh hoạt bình thường như những trẻ khác. Tuy nhiên, dinh dưỡng vẫn là nền tảng của chăm sóc điều trị, giúp duy trì cân nặng, tăng sức đề kháng, giảm biến chứng và hạn chế tác dụng phụ của thuốc.
Lõm ngực bẩm sinh xảy ra khi xương ức phát triển bất thường tạo ra vết lõm trên thành ngực của bạn và có thể gây ra các vấn đề về thể chất cũng như cảm xúc cho trẻ. Cùng tìm hiểu về bệnh lý lõm ngực bẩm sinh ở trẻ qua bài viết sau đây!
Thời tiết lạnh giá và chuyển mùa thường làm gia tăng các vấn đề về xương khớp, gây ra tình trạng đau cứng khớp và khó khăn khi vận động. Sự thay đổi của nhiệt độ và độ ẩm có thể làm các mô cơ giãn nở, tạo áp lực lên khớp, dẫn đến cảm giác đau nhức hoặc tê cứng.
Hà Nội, ngày 27/11/2025 – Kết quả nghiên cứu mới nhất do Viện Y học ứng dụng Việt Nam thực hiện được công bố tại Hội thảo khoa học “Thực trạng dinh dưỡng, sức khỏe người cao tuổi ở một số thành phố lớn và đề xuất một số giải pháp” đã chỉ ra những thách thức lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT) tại các đô thị lớn.
Chế độ ăn kiêng low-carb (ít carbohydrate) đã chứng minh được hiệu quả trong việc giảm cân nhanh chóng và cải thiện nhiều chỉ số sức khỏe. Tuy nhiên, chìa khóa để thành công không phải là việc cắt giảm carb một cách mù quáng, mà là thực hiện một cách thông minh, bền vững để biến nó thành một lối sống lâu dài.
Ung thư đại trực tràng là căn bệnh phổ biến và gây tử vong cao trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng cũng nằm trong top năm loại ung thư gây tử vong hàng đầu. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh có thể giảm đáng kể thông qua các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Bài viết này sẽ đưa ra lời khuyên thiết thực để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, bao gồm điều chỉnh chế độ ăn uống, tăng cường vận động và sàng lọc định kỳ, giúp bạn chủ động bảo vệ sức khỏe.
Loãng xương (osteoporosis) là một bệnh lý phổ biến thường gặp ở người cao tuổi gặp cả ở nam và nữ . Do đó, việc chuẩn đoán sớm, theo dõi và kiểm soát loãng xương là điều rất thiết, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe nhưng lại gây triệu chứng khó chịu cho nhiều người mắc hội chứng ruột kích thích.