ĐTĐ là bệnh thuộc nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa, được đặc trưng bởi lượng đường tăng thường xuyên trong máu gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và tăng nguy cơ tổn thương thần kinh tim mạch.
Những dấu hiệu nào?
Đối với người có đường huyết cao, nhất là đường huyết cao kéo dài, có một số dấu hiệu được cảnh báo, đó là đi tiểu nhiều. Tuy nhiên, đi tiểu nhiều (cả số lần và cả số lượng mỗi lần đi tiểu) có thể do nhiễm trùng đường tiểu, đặc biệt là viêm bàng quang hoặc ở nam giới mắc bệnh của tiền liệt tuyến (bệnh tăng sinh lành tính, u hoặc ung thư tiền liệt tuyến…) hoặc do uống nhiều nước, uống bia (nhất là bia lạnh), ăn nhiều trái cây (nhất là loại chứa nhiều nước như dưa hấu, lê...) hoặc do dùng một số thuốc (glucosamin, thuốc điều trị mỡ máu, viên thuốc bọc đường…) hoặc do mắc bệnh ĐTĐ.
Tiểu nhiều có nghĩa là thận phải làm việc nhiều hơn để thải lượng đường thừa. Tiểu nhiều gây cho người bệnh có cảm giác khát nước. Cảm giác khát nước có liên quan đến một số bệnh nhiễm trùng gây sốt cao hoặc sốt kéo dài, bệnh tiêu chảy, một số bệnh ung thư hoặc khát nhiều liên quan đến tiểu nhiều, trong đó có bệnh ĐTĐ. Cảm giác khát nước do cơ thể mất nước gây phản xạ khát nước.
Đi kèm với mệt mỏi, tiểu nhiều, người bệnh ĐTĐ thường đói bụng. Vào các thời điểm trước các bữa ăn chính, đói là chuyện bình thường vì dạ dày đã rỗng, cần được bổ sung để tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động, nhưng đói thường xuyên lại là một chuyện khác, có thể do bệnh ĐTĐ.
Bởi vì, đi tiểu nhiều hơn nên người bệnh có xu hướng giảm calo bởi lượng insulin trong máu không ổn định (do tuyến tụy không sản xuất đủ hoặc do một số tế bào của cơ thể như tế bào các cơ, tế bào gan, mỡ đề kháng với chất insulin, tức là không đáp ứng với insulin) nên các tế bào cơ thể không có đủ năng lượng để thực hiện các hoạt động hàng ngày, từ đó cơ thể sẽ phản ứng bằng cách tìm kiếm thêm nguồn năng lượng, dẫn đến những cơn đói cồn cào, khó chịu.
Ngoài ra, do lượng đường huyết cao nên ngăn chặn đường từ thực phẩm đến các tế bào dẫn đến cảm giác thường xuyên đói. Đường huyết cao thường xuyên có thể có cảm giác tê hoặc ngứa các đầu chi hoặc mắt cứ mờ dần, khô mắt, bởi vì lượng đường dư thừa trong máu gây tổn thương các mạch máu nhỏ (vi mạch như ở đáy mắt) và tổn thương đầu dây thần kinh, điển hình là dẫn đến gây tê tay chân hoặc mất cảm giác ở bàn tay và bàn chân.
Ngoài ra, người tăng đường huyết thường xuyên có thể dễ mắc các bệnh nhiễm trùng (viêm hô hấp, viêm tiết niệu, nhiễm trùng da, điển hình là loét bàn chân) do các loại vi sinh vật gây bệnh rất ưa thích đường glucoza.
Với phụ nữ đang mang thai, có thể có một số trường hợp đường máu cao thường xuyên do những rối loạn chuyển hóa trong cơ thể hoặc gia đình có tiền sử người mắc bệnh ĐTĐ hoặc những lần sinh đẻ trước, con bị dị tật hoặc do thai chết lưu.
Ngoài các dấu hiệu như vừa giới thiệu ở phần trên, bà bầu có thể có các dấu hiệu như vùng kín bị nhiễm nấm hoặc vi khuẩn mà không thể làm vệ sinh sạch sẽ bằng các thuốc chống khuẩn thông thường.
Nếu trong giai đoạn mang thai bị ĐTĐ mà không kiểm soát tốt có thể dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng tới thai nhi, bởi vì, không ít trường hợp thai nhi đã tử vong vì các biến chứng của ĐTĐ thai kỳ do mẹ mắc phải.
Khi có một trong các dấu hiệu vừa kể ở trên cần đi khám bệnh với mục đích xác định đường huyết có bị gia tăng khi đói hay không, vì vậy, cần nhịn ăn sáng trước lúc đi khám bệnh. Không ăn các loại thực phẩm, nước giải khát ngọt hoặc không uống rượu, bia…
Đánh giá đường huyết cao cần dựa vào kết quả xét nghiệm máu. Sau đây là chỉ số đường glucoza ở người bình thường: trước bữa ăn, từ 90 - 130mg/dl (5,0 - 7,2mmol/l); sau bữa ăn 1 - 2 giờ, nhỏ hơn 180mg/dl (10mmol/l) và trước lúc đi ngủ tối, 110 - 150mg/dl (6,0 - 8,3mmol/l).
Do đó, mức độ đường 180mg/dL(10mmol/l) trong máu được coi là cao. Thế nhưng, chỉ khi con số này tăng vượt 250 mg/dL thì mới xuất hiện những dấu hiệu đáng chú ý như trình bày ở phần trên. Khi có nghi ngờ, nên kiểm tra đường máu lúc đói ít nhất 3 lần liên tiếp (3 ngày liên tiếp).
Cà phê từ lâu đã trở thành thức uống quen thuộc của hàng triệu người mỗi sáng. Tuy nhiên, uống bao nhiêu là đủ để tốt cho sức khỏe và khi nào thì trở thành quá nhiều?
Khi nước kiềm ngày càng phổ biến, các tuyên bố xung quanh lợi ích sức khỏe và khả năng cải thiện sức khỏe tổng thể của nó cũng tăng theo. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xem xét kỹ lưỡng những khẳng định này. Vì vậy, hãy cùng tìm hiểu và khám phá sự thật về nước kiềm và những lợi ích thật sự của nước kiềm.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Chế độ ăn uống lành mạnh không thể thiếu thực phẩm giàu creatine - hợp chất tự nhiên giúp cung cấp năng lượng cho cơ bắp, cải thiện hiệu suất tập luyện và sức khỏe não bộ.
Có rất nhiều loại bệnh võng mạc khác nhau. Những bệnh này có thể do gen di truyền từ cha mẹ hoặc từ tổn thương võng mạc tích lũy trong suốt cuộc đời. Một số loại bệnh võng mạc phổ biến hơn các bệnh khác.
Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?
Nhiễm ký sinh trùng có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khỏe như các triệu chứng về tiêu hóa không rõ nguyên nhân, ngứa, thiếu máu, đau cơ và khớp, ăn không thấy no,… Cùng tìm hiểu về 10 dấu hiệu cho thấy có thể bạn đang nhiễm ký sinh trùng qua bài viết sau đây!
Nước dừa có thành phần dinh dưỡng đặc biệt và nhiều lợi ích cho sức khỏe như cung cấp chất điện giải, giúp hạ huyết áp... Đây là lý do nước dừa ngày càng trở thành lựa chọn phổ biến của nhiều người.