Nguyên nhân?
Cơn đau quặn thận là cơn đau bụng vùng hố thắt lưng bao gồm nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó gặp nhiều nhất là do sỏi tiết niệu, đặc biệt là sự di chuyển của sỏi thận xuống niệu đạo làm tắc đường tiểu, ứ đọng nước tiểu, từ đó làm tăng áp lực trong đài - bể thận, gây tổn thương niệu quản dẫn đến đái máu. Sự hình thành sỏi thận thường do tích tụ các chất khoáng canxi, oxalate, cystine hoặc axít uric trong nước tiểu. Các dạng sỏi tiết niệu này hay gặp ở nam giới và có tỉ lệ cao gấp 3 lần so với nữ giới. Bệnh có thể gặp ở nhiều lứa tuổi, tuy nhiên độ tuổi hay gặp nhất là lứa tuổi trưởng thành và người cao tuổi.
Cơn đau quặn thận còn có thể do huyết khối trong niệu quản hoặc khối u chèn ép niệu quản từ bên ngoài gây tắc cấp tính đường dẫn tiểu gây ứ nước tiểu, căng trướng đài bể thận đột ngột gây ra cơn đau quặn thận. Hoặc do viêm thận, bể thận (xuất huyết đài-bể thận gây chảy máu vùng đài-bể thận hình thành máu tụ trong bể thận dẫn đến tắc niệu quản), áp-xe thận, lao thận (gây viêm hít hẹp quanh niệu quản), u thận, viêm bàng quang cấp hoăc do ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận hoặc u sau phúc mạc chèn ép vào niệu quản hoặc u niệu quản, u bàng quang gây hẹp lỗ niệu quản đổ vào bàng quang… gây cơn đau quặn thận.
Đặc điểm của cơn đau quặn thận
Đặc điểm nổi bật nhất là đột nhiên đau quặn bụng dưới một bên vùng hố thắt lưng, dữ dội, đau như cắt, đau lan ra sau lưng và lan ra phía trước vùng hạ sườn phải hoặc hạ sườn trái, lan xuống vùng bẹn, vùng sinh dục ngoài muốn tiểu nhưng không thể tiểu được và có thể đái rắt, buốt, đồng thời mặt tái, toát mồ hôi, muốn nôn hoặc nôn mửa, cơn đau quá mức có thể gây ngất lịm. Cơn đau thường kéo dài hơn 20 phút, đôi khi kéo dài cả tiếng đồng hồ, thậm chí lâu hơn trong vài giờ. Đau có thể kèm theo sốt hoặc ớn lạnh. Vị trí đau phụ thuộc vào vị trí sỏi và sự di chuyển của sỏi, ngoài ra có thể gặp cơn đau quặn thận trong các trường hợp viêm bể thận cấp tính, sỏi bể thận gây ứ nước cấp tính, gây sự căng trướng đột ngột của bao thận hoặc sỏi niệu quản ở 1/3 trên. Trong và sau cơn đau quặn thận có thể đái ra máu đại thể hoặc vi thể (mắt thường nhìn thấy hoặc phải xét nghiệm nước tiểu soi dưới kính hiển vi, thấy hồng cầu).
Vị trí đau phụ thuộc vào vị trí sỏi và sự di chuyển của sỏi
Nên lưu ý là cơn đau quặn thận thường xuất hiện đột ngột sau khi chơi thể thao, lao động nặng hay đi đi ô tô hoặc xe đạp một quãng đường xa, đường ghồ ghề xóc nhiều.
Cơn đau quặn thận có thể nhầm với bệnh gì?
Cơn đau quặn thận dễ nhầm với bệnh viêm ruột thừa cấp tính hoặc nhầm với cơn đau quặn gan - mật khi đau bụng dưới bên phải. Hoặc nhầm với cơn đau cấp của bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng và đáng sợ hơn là bệnh thủng dạ dày hoặc viêm tụy cấp tính. Ngoài ra, có thể nhầm bệnh thủng ruột do bệnh thương hàn (do vi khuẩn Salmonella gây ra), hoặc thủng ruột do dùng thuốc corticoid, do thuốc chống viêm không steroid hoặc tắc ruột hoặc chữa ngoài tử cung vỡ (phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ).
Cần chụp X-quang hệ tiết niệu, chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc tốt hơn là chụp cộng hưởng từ (MRI) hệ tiết niệu và cần chụp ổ bụng không chuẩn bị (có liềm hơi hay không). Bên cạnh đó nên xét nghiệm công thức máu, xét nghiệm nước tiểu toàn phần, và nên xét nghiệm phân tích thành phần của sỏi hệ tiết niết niệu.
Cần chụp X-quang hệ tiết niệu, chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc tốt hơn là chụp cộng hưởng từ (MRI) hệ tiết niệu
Nguyên tắc điều trị như thế nào?
Khi có cơn đau quặn thận, cần khẩn trương đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu kịp thời. Sau khi cấp cứu và xác định bệnh sẽ được chỉ định điều trị theo nguyên nhân, đặc biệt đề phòng các bệnh khác có tính chất đau giống đau quặn thận nhưng là cấp cứu ngoại khoa (viêm ruột thừa, thủng dạ dày, tắc ruột, phụ nữ chửa ngoài dạ con…). Với bệnh sỏi tiết niệu có thể điều trị nội khoa (dùng thuốc) hoặc can thiệp bằng ngoại khoa (tán sỏi, mổ lấy sỏi,…). Người bệnh và người nhà không nên chủ quan để tránh xẩy ra hậu quả đáng tiếc, do đến bệnh viện chậm trễ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?