Tính an toàn của Vitamin K2
Là một thành viên của họ vitamin K, vitamin K2 rất cần thiết cho nhiều chức năng sinh học của cơ thể bao gồm quá trình đông máu hay duy trì sức khỏe xương.
Vitamin K2 tồn tại dưới nhiều dạng, trong đó phổ biến nhất là dạng MK-4 và MK-7 – chủ yếu được tìm thấy trong các thực phẩm có nguồn gốc động vật và các thực phẩm lên men.
Nghiên cứu về độc tính trên động vật và trên người
Một số nghiên cứu thực nghiệm về độc tính cấp tính của vitamin K2 liều cao trên chuột, mức bổ sung 540 mg/kg trọng lượng cơ thể không phát hiện thấy chuột tử vong hoặc xuất hiện tác dụng phụ đáng kể. Một nghiên cứu khác trên chuột, với liều bổ sung 30 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày theo đường uống, kéo dài trong 13 tuần, cũng không tìm thấy trường hợp tử vong hoặc xuất hiện các dấu hiệu bất lợi đáng kể nào.
Nhiều nghiên cứu đã tiến hành bổ sung vitamin K2 trên động vật trong thời gian dài để đánh giá mức độ độc tính bán trường diễn. Các nghiên cứu trên chó dùng liều cao MK-4 không ghi nhận bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào về trọng lượng các cơ quan cơ thể hoặc bất thường về mô bệnh học. Một số nghiên cứu trên chuột đã sử dụng dùng các liều bổ sung từ 0, 10, 100 hoặc 1000mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày trong 14 ngày, đã không tìm thấy tác động đáng kể nào đối với lượng thức ăn và lượng nước tiêu thụ hàng ngày, cũng như trọng lượng cơ thể hoặc các chỉ số về sinh sản. Ngoài ra, không có dị tật hoặc vấn đề bất lợi phát triển đáng kể nào ở chuột cái.
Nghiên cứu trên người về tính an toàn của vitamin K2 cũng đã được báo cáo. Nghiên cứu tại Nhật bản trên 77 trẻ sơ sinh cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về các thông số đông máu giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh trong nhóm can thiệp có cân nặng khi sinh cao hơn, cho thấy việc bổ sung vitamin K2 từ mẹ có thể có tác dụng có lợi đối với sự phát triển của thai nhi. Một số nghiên cứu khác đã điều tra tác động của việc bổ sung MK-7 lên các thông số đông máu ở người lớn và trẻ em khỏe mạnh, với liều MK-7 từ 10 đến 360 µg/ngày trong 12 tuần, cũng không tìm thấy tác động đáng kể nào lên các thông số đông máu, ngay cả ở liều cao nhất.
Nhìn chung, vitamin K2 có khả năng dung nạp cao, và việc không có tác dụng phụ khi bổ sung ở liều cao, gợi ý về tính an toàn của việc bổ sung vitamin K2.
Mức tiêu thụ vitamin K2 tại các quốc gia trên thế giới
Theo khảo sát tại Vương quốc Anh, mức tiêu thụ trung bình của vitamin K2 ước tính là khoảng 36mcg/ngày đối với nữ giới trưởng thành và 54mcg/ngày đối với nam giới thanh thiếu niên. Ở trẻ em, mức tiêu thụ cao hơn và dao động từ 75mcg/ngày đến 115mcg/ngày. Giả sử một ngày một người trưởng thành tiêu thụ 50mcg vitamin K2 từ thực phẩm, thì tổng lượng vitamin K2 hấp thụ hàng ngày (kể cả từ tất cả các nguồn khác) sẽ đạt khoảng từ 86-95mcg/ngày – tương đương 1,4-1,6mcg/kg cân nặng/ngày đối với phụ nữ và nam giới với trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn là 60 kg.
Theo khảo sát tại Hoa Kỳ, lượng vitamin K1 trung bình tiêu thụ ở người trẻ tuổi dao động từ 60-110mcg/ngày, và ở mức được coi là an toàn của vitamin K2 người trên 55 tuổi là từ 80-210mcg/ngày.
Tại Hà Lan, lượng vitamin K tiêu thụ bình quân đầu người trung bình hàng ngày được ước tính lên tới 250mcg/ngày do lượng rau xanh tiêu thụ tương đối cao, tương ứng với lượng vitamin K2 trung bình hàng ngày bình quân đầu người ước tính là khoảng 10% - tương đương 25mcg/ngày.
Tại Nhật Bản, vitamin K2 (dưới dạng MK-4) được đăng ký sử dụng như một yếu tố trị liệu để điều trị chứng loãng xương sau mãn kinh. Natto là một món ăn truyền thống của Nhật Bản được làm từ đậu nành lên men và được cho là có lịch sử tại Nhật Bản từ ít nhất 1000 năm trước. Theo đó, natto được bán dưới dạng gói chứa hàm lượng khoảng 350mcg vitamin K2. Natto cũng được sản xuất và bán như một loại thực phẩm trên thị trường Hoa Kỳ.
Có thể thấy rằng, hàm lượng vitamin K2 tiêu thụ ở các quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào chế độ ăn và thực phẩm của từng khu vực.
Ngưỡng bổ sung vitamin K2 và quy định hiện hành
Hiện tại, tại Hoa Kỳ, hàm lượng vitamin K (không cụ thể K1 hay K2) được liệt kê trên nhãn thực phẩm như yêu cầu bắt buộc cho các thực phẩm có bổ sung vitamin K. Đối với dạng vitamin K2, thông thường sẽ được liệt kê trong các hướng dẫn của chuyên gia dưới dạng nguồn bổ sung vitamin K, với liều lượng thường từ 25 đến 100mcg.
Tính đến thời điểm hiện tại, Ủy ban Khoa học về Thực phẩm châu Âu (SCF) không đưa ra khuyến nghị nào về lượng vitamin K tiêu thụ bao gồm cả vitamin K2, nhưng đưa ra mức 1mcg/kg cân nặng/ngày là đủ và có thể nhận được từ chế độ ăn uống bình thường hàng ngày. Cơ quan An toàn thực phẩm châu Âu (EFSA), Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) không đưa ra khuyến nghị về mức tối đa và mức tối thiểu cho vitamin K2.
Tại Việt Nam, hiện chưa có khuyến nghị cụ thể về bổ sung vitamin K2. Đối với vitamin K nói chung, nhu cầu khuyến nghị được căn cứ dựa trên nhu cầu khuyến nghị vitamin K tại Nhật Bản, với mức khuyến nghị trong khoảng từ 4-7mcg/ngày ở trẻ dưới 12 tháng tuổi; từ 60-120mcg/ngày ở trẻ từ 1 đến 14 tuổi và khoảng 150mcg/ngày ở người trên 14 tuổi.
Khuyến cáo của Chuyên gia dinh dưỡng VIAM
Cho đến thời điểm hiện tại, các nghiên cứu trên động vật và trên người đều đang đồng nhất quan điểm bổ sung vitamin K2 chưa tìm thấy các ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Việc bổ sung vitamin K2 được coi là an toàn khi sử dụng trong các sản phẩm thực phẩm.
Vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu để khẳng định việc bổ sung vitamin K2 có thừa hay không, con đường nào dẫn đến chuyển hóa vitamin K2 trong cơ thể để cân bằng nếu dư thừa và những ảnh hưởng lâu dài đối với sức khỏe. Tuy nhiên hiện tại, việc bổ sung vitamin K2 có thể được coi là an toàn, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
Tài liệu tham khảo
Mật ong với nghệ có thể được dùng cùng nhau trong chế độ ăn hằng ngày và thực phẩm bổ sung, vậy tác dụng của chúng có mạnh hơn khi kết hợp?
Du lịch là dịp để khám phá thiên nhiên, trải nghiệm văn hóa và tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn. Tuy nhiên, bên cạnh những điều thú vị, các chuyến đi đôi khi cũng tiềm ẩn những rủi ro nhỏ nhưng phiền toái, chẳng hạn như những vết thương do côn trùng cắn
Sữa là nguồn dinh dưỡng quan trọng nên có trong chế độ ăn hằng ngày, trong đó sữa nguyên chất được đánh giá là nguồn cung cấp protein tốt. Tìm hiểu về dinh dưỡng, lợi ích và rủi ro khi tiêu thụ sữa nguyên chất.
Một số ứng dụng có thể cho bạn biết bạn dành bao nhiêu thời gian cho điện thoại và bạn dành bao nhiêu thời gian cho từng ứng dụng. Ngay cả khi bạn không nghĩ rằng mình sử dụng điện thoại quá nhiều, việc nhìn thấy những con số thống kê tần suất sử dụng có thể khiến bạn muốn đặt điện thoại xuống.
Chất béo thường bị hiểu lầm là “kẻ thù” của sức khỏe, đặc biệt là đối với tim mạch và cân nặng. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả chất béo đều có hại. Ngược lại, một số loại chất béo tốt lại đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì năng lượng, hấp thụ vitamin và bảo vệ cơ thể khỏi viêm nhiễm. Trong đó, dầu ăn có nguồn gốc thực vật như dầu ô liu, dầu bơ, dầu mè... không chỉ mang lại hương vị phong phú cho món ăn mà còn cung cấp các acid béo có lợi cho tim mạch, não bộ và hệ miễn dịch.
Quan niệm sai về hàm lượng cholesterol trong trứng đã khiến nhiều người, đặc biệt là những người mắc bệnh tim hoặc đái tháo đường, loại bỏ trứng khỏi chế độ ăn uống của mình.
Nhịp sống hiện đại cũng dần làm thay đổi chế độ ăn uống của con người, khi thời gian đôi lúc được coi là ưu tiên số 1. Việt Nam cũng không ngoại lệ trong tiến trình này. Từ những bữa ăn truyền thống giản dị vừa phải, ngày nay, các món ăn nhanh, nhiều dầu mỡ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu, hiện diện đậm nét trong hầu hết các bữa cơm gia đình đến các bữa tiệc bên ngoài. Không nằm ngoài quy luật đó, sự dịch chuyển của xu hướng tiêu thụ dầu mỡ trong chế độ ăn cũng thể hiện rõ nét, bao gồm sự tăng vọt về số lượng và sự ưu tiên thiên lệch ngày càng rõ rệt đối với một số loại chất béo nhất định.
Vaccine ung thư là một dạng liệu pháp miễn dịch có thể giúp hệ miễn dịch "nhận ra" các tế bào ung thư để từ đó nhận diện và loại bỏ chúng.