Tại sao lại sợ béo?
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người có chỉ số khối cơ thể cao sẽ có nguy cơ mắc các bệnh như tăng cholesterol, đái tháo đường và tăng huyết áp cao hơn những người có chỉ số cơ thể bình thường. Đây là nguyên nhân khiến nhiều những người đang trong mức thừa cân hay béo phì cần có những thay đổi để hạn chế tối đa mức độ ảnh hưởng có thể xảy ra của các bệnh liên quan.
Rõ ràng, việc chúng ta đưa ra các thông tin về tác hại của béo phì để thúc đẩy sự rèn luyện, thực hiện lối sống lành mạnh cho tất cả mọi người là điều đúng đắn. Nhưng điều này cũng gây ra một chiều hướng suy nghĩ tiêu cực đối với một số người. Đó là những suy nghĩ về lo ngại về bản thân liệu có đang béo hay không, bản thân liệu có nguy cơ gặp phải các bệnh liên quan hay không? Dần dần, những thông tin tiêu cực đó sẽ ngày càng ảnh hưởng đến tâm trí, dẫn đến tình trạng ám ảnh về béo và các bệnh tật do béo. Và đương nhiên, suy nghĩ rằng bản thân luôn béo sẽ được nảy mầm và mang đến những hành động cố gắng hạn chế tất cả những gì mà người đó cho rằng: nó có thể gây ra béo.
Sự kỳ thị vóc dáng của bản thân cũng phát triển từ tình trạng đó. Cho rằng bản thân đang quá khổ, những người gặp tình trạng ám ảnh với sự béo sẽ tự gắn những mặc cảm cho chính bản thân và né tránh những hoạt động giao tiếp với xung quanh. Thực chất, có thể họ không béo hay không quá khổ như họ nghĩ.
Một nghiên cứu mới đây được công bố trên Tạp chí Tim mạch Dự phòng Châu Âu đã kết luận rằng những người chỉ số BMI cao nếu hoạt động thường xuyên sẽ có nguy cơ gặp phải các vấn sức khỏe tương đương với người có chỉ số BMI bình thường. Theo các chuyên gia, mối quan hệ giữa các nguy cơ gặp phải các vấn đề sức khỏe và chỉ số BMI duy trì ở mức ổn định nếu cá nhân duy trì hoạt động thể lực đều đặn và có lối sống lành mạnh. Tuy nhiên, giảm cân nên vẫn là mục tiêu hàng đầu của nhằm giảm nguy cơ mắc các bệnh có liên quan.
Nghiên cứu cũng không thừa nhận rằng sự kỳ thị về vóc dáng bản thân, kỳ thị về tăng cân và chứng sợ béo đã ảnh hưởng đến nghiên cứu, cũng như sức khỏe của những người tham gia và hiểu biết tổng thể về cân nặng và sức khỏe tổng thể. Đều lưu ý là kết luận này lại mang tới sự mâu thuẫn với một số nghiên cứu trước đây. Năm 2017, một nghiên cứu tác động của hoạt động thể chất đối với mối liên quan giữa thừa cân và béo phì với bệnh tim mạch đã theo dõi 5.344 người tại Hà Lan từ 15-55 tuổi tham gia. Nghiên cứu cho thấy những người có chỉ số BMI cao có mức độ hoạt động thể chất cao hơn không có nguy cơ mắc bệnh tim mạch nào tăng lên so với những người hoạt động bình thường có chỉ số BMI bình thường.
Nghịch lý béo phì
Theo nghiên cứu đối chiếu trên 21.000 người tại Mỹ đã tìm thấy mối liên quan đáng kể giữa trải nghiệm của một người với chứng sợ béo và việc gia tăng tỷ lệ mắc bệnh loét dạ dày, bệnh tim, cholesterol cao và tiểu đường, mặc dù các nhà nghiên cứu đã kiểm soát mức độ hoạt động thể chất và chỉ số BMI của đối tượng. Các nghiên cứu khác cho thấy rằng trải nghiệm với chứng sợ béo và sự kỳ thị vóc dáng bản thân – kỳ thị cân nặng bản thân một cách liên tục làm tăng phản ứng căng thẳng sinh lý cơ thể và tăng mức cortisol có liên quan đến các tác động tiêu cực đến sức khỏe.
Mặc dù nghiên cứu gần đây đã kết luận rằng: một người không thể vừa béo vừa gầy cùng một lúc (dù đây là điều hiển nhiên nhưng không phải ai cũng nhìn nhận một cách chính xác – nhất là những người đang mắc chứng sợ béo), nhưng nó cho thấy việc hoạt động thể chất làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch một cách hiệu quả so với những người ít vận động ở cùng một hạng cân. Do đó, những người béo có thể tăng nguy cơ cao huyết áp và tiểu đường hơn những người gầy, nhưng sự chênh lệch là ít hoặc không rõ ràng nếu họ duy trì lối sống lành mạnh. Đương nhiên là duy trì một lối sống tích cực mang tới giảm thiểu các nguy cơ mắc bệnh tim mạch hơn so với không tập thể dục. Do vậy, một người vẫn có thể cải thiện sức khỏe thông qua hoạt động thể chất ngay cả khi không giảm cân.
Nghịch lý béo phì mang tới vòng tròn về những ảnh hưởng có hại: sợ béo – căng thẳng tâm lý – hạn chế ăn uống – tác động tiêu cực sức khỏe – các vấn đề về sức khỏe giống như béo – lại càng sợ béo…
Tổng kết
Chứng sợ béo và việc kỳ thị vóc dáng, cân nặng bản thân mang tới nhiều ảnh hưởng tiêu cực, gây ra những tác hại cho sức khỏe. Việc đánh giá béo hay không có thể căn cứ trên những tiêu chuẩn về chỉ số khối cơ thể, chứ không hẳn cảm giác béo mà bản thân chúng ta cảm nhận. Khoa học cũng chứng minh rằng, lối sống lành mạnh và duy trì tập luyện thể lực đều đặn chính là chìa khóa giúp cơ thể tránh khỏi các bệnh nguy cơ do béo phì gây ra, cho dù bạn có đang béo hay không.
Việc ai đó thể hiện tình cảm với bạn có thể khiến bạn cảm thấy vui vẻ và phấn khích khi bạn đang trong giai đoạn đầu của một mối quan hệ mới. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt sự mới lạ của một mối quan hệ mới với các hành vi thái quá.
Trong cuộc sống hiện đại, khi thời gian dành cho gia đình ngày càng bị thu hẹp bởi công việc và các thiết bị điện tử, việc tìm kiếm một hoạt động vừa tốt cho sức khỏe vừa giúp gắn kết tình cảm cha con trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Những ngày hè đầy nắng là thời điểm lý tưởng để đưa trẻ ra ngoài chơi, đi biển, cắm trại, picnic,... Tuy nhiên, dành quá nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời có thể khiến trẻ dễ bị cháy nắng. Cháy nắng nặng không chỉ gây khó chịu mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe về da cho trẻ. Cùng đọc bài viết sau đây để biết cách phòng tránh và xử trí khi trẻ bị cháy nắng.
Mùa hè mang theo những ngày nắng kéo dài, không khí oi bức và nền nhiệt độ cao, tạo nên nhiều thách thức đối với sức khỏe con người. Một trong những ảnh hưởng phổ biến nhưng ít được chú ý là tình trạng đau đầu do nóng.
Chất béo là một trong ba nhóm dưỡng chất thiết yếu, cùng với carbohydrate và protein, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể con người.
Mùa hè đến, cái nắng gay gắt không chỉ khiến cơ thể mệt mỏi mà còn tiềm ẩn những mối nguy hiểm khôn lường đối với sức khỏe, trong đó đột quỵ nhiệt là một trong những tình trạng đáng lo ngại nhất.
Cá cơm là một nguồn dinh dưỡng ấn tượng, mang lại những lợi ích sức khỏe đáng ngạc nhiên.
Kháng sinh (hay thuốc kháng sinh) đóng vai trò then chốt trong y học hiện đại, giúp điều trị hiệu quả các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.