Nếu trẻ bị đau sau khi vận động quá nhiều hoặc va chạm mạnh với các vật cứng thì đó là vấn đề thường thấy thế nhưng nếu tình trạng trẻ bị đau xương khớp tái diễn, cơn đau dai dẳng không dứt gây hạn chế cho việc vận động thì rất có khả năng trẻ bị các bệnh về xương khớp điển hình đó là bệnh thấp khớp. Chính vì vậy khi trẻ có những dấu hiệu lạ của bệnh thấp khớp thì tốt nhất các bậc cha mẹ nên đưa con của mình đi khám bác sĩ để có những kết luận chính xác để được điều trị thích hợp và kịp thời.
Đặc điểm của bệnh thấp khớp
Bệnh thấp khớp là bệnh gây ảnh hưởng đến các khớp xương. Bệnh này gây đau, sưng và cứng khớp. Nếu một đầu gối hoặc bàn tay bị thấp khớp, thông thường đầu gối hoặc bàn tay còn lại cũng bị bệnh. Bệnh này thường xảy ra ở nhiều khớp và có thể ảnh hưởng đến bất kỳ khớp nào trong cơ thể. Những người mắc bệnh này có thể cảm thấy ốm yếu, mệt mỏi và thỉnh thoảng bị sốt.
Một số người chỉ mắc bệnh này trong vài tháng hoặc một hai năm. Sau đó, bệnh khỏi mà không gây ra tổn hại nào. Ở những người khác, có khi các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn (bùng phát) và có khi các triệu chứng đỡ hơn (thuyên giảm). Những người khác bị thấp khớp dạng nặng có thể kéo dài trong nhiều năm hoặc suốt đời. Dạng bệnh này có thể gây ra tổn thương khớp nghiêm trọng.
Bệnh thấp khớp cấp
Thấp khớp cấp là biến chứng của viêm họng do nhiễm vi khuẩn liên cầu nhóm A không được điều trị kịp thời. thường xuất hiện ở trẻ em từ 5 tuổi tới 15 tuổi. Khi bị bệnh này trẻ em thường có những triệu chứng sau:
Triệu chứng của bệnh thấp khớp ở trẻ em
Bệnh thường là cấp tính nên có các biểu hiện ra bên ngoài như: sốt, đau nhức khớp, cơn đau có thể kéo dài và âm ỉ làm trẻ rất khó chịu.
Vị trí cơn đau bắt đầu thường là ở các khớp lớn sau đó mới lan ra các khớp nhỏ khác thường thì cơn đau xuất hiện ở khớp đầu gối, khớp cổ chân, khớp khuỷu tay…
Vùng bị tổn thương khớp sẽ thấy sưng nóng, đỏ đau nhức vùng này cho tới khi có biện pháp giảm đau can thiệp.
Di chuyển từ khớp này sang khớp khác, khi chuyển sang khớp mới, khớp cũ hết đau, không để lại di chứng tại khớp.
Viêm họng sốt cao, mệt mỏi, đau rát họng, nuốt khó, ho khan hoặc có đờm.
Đối tượng dễ mắc bệnh thấp khớp
Tỷ lệ mắc bệnh là: 0,5 – 0,6 % dân số trẻ em, rất ít gặp ở người lớn.
Bệnh thường mắc ở trẻ em đang lứa tuổi đi học từ 5-15 tuổi.
Bệnh có thể gặp ở cả nam và nữ.
Sự nguy hiểm của thấp khớp cấp tới tim
Bệnh thấp khớp ở trẻ nghĩ thì bình thường vì có những trường hợp tự khỏi được tuy nhiên không thể chủ quan được vì bệnh có thể gây nên những biến chứng nguy hiểm tới hệ thống xương khớp nếu như không có phương pháp điều trị hợp lý.
Thấp khớp có thể gây tổn thương vĩnh viễn cho các van tim đưa đến suy tim, chính vì vậy người ta xếp thấp khớp vào nhóm bệnh tim mạch và gọi là thấp tim. Biến chứng tim hay não có thể muộn hơn 10 đến 20 năm.
Các triệu chứng thấp tim khởi đầu khoảng hai tuần sau khi nhiễm trùng họng bao gồm sốt, đau mắt cá chân, đầu gối, khuỷu tay hoặc cổ tay, di chuyền từ khớp này sang khớp khác, sưng đỏ nóng đau, nổi nốt dưới da, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, chuyển động giật rung tay chân và khuôn mặt.
Thấp khớp cấp có thể gây tổn thương vĩnh viễn cho các van tim đưa đến suy tim, Bệnh có nhiều tên gọi khác như viêm khớp cấp do thấp, sốt thấp, thấp tim.
Phòng bệnh thấp khớp cấp
Dự phòng gồm phòng thấp ban đầu và phòng thấp tái phát. Phòng thấp ban đầu áp dụng cho trẻ chưa bao giờ bị thấp tim.
Trẻ cần vệ sinh răng miệng hàng ngày, ngâm họng nước muối…
Trẻ cần thực hiện vệ sinh răng miệng hàng ngày bằng đánh răng, xúc họng, ngậm họng bằng nước muối.
Tránh cho trẻ tiếp xúc với người bị viêm nhiễm đường hô hấp trên.
Khi phát hiện trẻ bị viêm họng, sưng khớp cần phải cho trẻ đi khám bệnh, làm xét nghiệm để phát hiện, điều trị sớm, đúng cách.
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.