Với bệnh nhân Alzheimer, ăn uống là một quá trình rất khó khăn nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bệnh. Khi bệnh tiến triển ngày càng xấu đi, tình trạng thiếu dinh dưỡng do các khó khăn về ăn uống có thể làm trầm trọng thêm sự nhẫm lẫn và mất trí nhớ của bệnh nhân dẫn tới suy nhược cơ thể cũng như gia tăng các bệnh nhiễm trùng cơ hội và các vấn đề sức khỏe khác.
Nếu bạn đang chăm sóc người thân mắc bệnh Alzheimer thì đây cũng chính là một thử thách vô cùng khó khăn cho bạn. Làm thể nào để giúp bệnh nhân ăn uống tốt hơn và đảm bảo được dinh dưỡng hợp lý? Hãy xem bạn có thể làm được gì nhé:
Bệnh tật có thể làm người bệnh Alzheimer khó khăn trong việc ăn uống
Bản thân bệnh Alzheimer và một số loại bệnh tật và thuốc điều trị có thể làm cho người bệnh mất cảm giác ăn uống, bao gồm:
Ngoài việc điều trị những bệnh kèm theo như trên, bạn cũng nên hỏi bác sỹ về việc từ bỏ chế độ ăn kiêng cho bệnh nhân Alzheimer để tăng cảm giác ngon miệng.
Làm thế nào để hạn chế những khó khăn trong ăn uống cho người bệnh alzheimer
Là người chăm sóc, bạn luôn được khuyến cáo: hãy kiên nhẫn, rất kiên nhẫn để giảm thiểu tối đa những khó khăn về ăn uống do bệnh Alzheimer mang lại. Mức độ trầm trọng của những khó khăn về ăn uống sẽ tăng dần theo thời gian, vì vậy, hãy tập làm quen với những lời khuyên dưới đây ngay từ khi người nhà của bạn được chẩn đoán mắc Alzheimer .
Thứ nhất, thừa nhận sự suy giảm các giác quan và kỹ năng: Trong giai đoạn đầu mắc bệnh alzheimer, người nhà của bạn có thể quên giờ giấc, các bữa ăn hoặc các kỹ năng cần thiết của việc ăn uống. Bữa ăn sẽ dần dần trở nên tệ hại, và dễ dàng dẫn đến những xung đột.
Ngoài ra, bệnh nhân alzheimer có thể bị giảm vị giác và khứu giác nên họ không có cảm giác ngon miệng khi ăn cũng như không cảm nhận được hương vị của món ăn.
Với những bệnh nhân alzheimer nặng, họ có thể quên đi các thói quen ăn uống và nhận diện đâu là đồ ăn. Sự biến đổi trong não bộ khiến họ mất kiểm soát các xung động thần kinh và sự phán đoán và khiến họ ăn tất cả những gì ở trong tầm mắt của họ kể cả những thứ không phải là đồ ăn.
Khi bệnh ở giai đoạn nặng hơn, những khó khăn trong việc ăn uống ở giai đoạn bệnh sau chủ yếu là việc khó nuốt.
Hãy chấp nhận tất cả những điều này như là kết quả tất yếu của sự tiến triển bệnh Alzheimer.
Bạn nên làm gì? Hãy từ từ gợi lại những kỹ năng đó bằng cách giúp họ chuẩn bị đồ ăn và làm hộ họ những gì họ không làm được chứ không phải tất cả. Nếu người thân của bạn vẫn nấu nướng được một phần bữa ăn, hãy để họ tự nấu và bạn nấu những phần còn lại. Nếu bạn gọi đồ ăn sẵn thì hãy cùng với họ hoặc giúp họ xem đồ ăn đã được mở ra chưa và có cần được đun nóng lại không.
Trong khi ăn, hãy nhắc lại cách ăn uống và giảm thiểu những cách thức ăn uống cũng như đồ dùng phức tạp. Chỉ giúp đỡ như lấy thức ăn hay xúc cho họ khi điều đó thực sự cần thiết. Trong những giai đoạn muộn hơn, hãy chế biến đồ ăn dưới dạng lỏng như cháo, súp để hỗ trợ cho người bệnh khi họ khó nuốt.
Trong trường hợp bạn không thể làm được những điều này, hãy cân nhắc đến việc thuê hoặc nhờ người trợ giúp.
Thứ hai, cố gắng giảm thiểu sự kích động và mất tập trung của người bệnh
Kích động và những triệu chứng khác của bệnh Alzheimer có thể làm cho bệnh nhân không thể ngồi đủ lâu để ăn một bữa ăn. Họ luôn có xu hướng bỏ đi, làm việc khác, chú ý đến việc khác hoặc chỉ đơn giản là không ăn.
Bạn nên làm gì? Để giảm bớt sự mất tập trung của bệnh nhân tốt nhất là bạn nên tắt ti vi, đài, điện thoại nên đẻ ở chế độ rung hoăc bỏ hết những thứ có thể gây chú ý cho họ. Hãy ngồi ăn trong phòng ăn, tại bàn ăn quen thuộc như một thói quen cố định.
Bạn cũng nên bở bớt những thứ không cần thiết trên bàn ăn để không làm xao lãng họ khi ăn. Nếu người thân của bạn muốn đi ra ngoài thì hãy thử đưa hoặc mang theo một phần đồ ăn, chẳng hạn như một miếng bánh mỳ...để họ ăn trong lúc đi dạo.
Không nên cho người thân của bạn uống các đồ uống có cồn mặc dù chúng kích thích sự ngon miệng nhưng chúng cũng có thể dẫn tới việc tăng sự nhầm lẫn và kích động cũng như việc dễ bị té ngã của bệnh nhân Alzheimer.
Thứ ba, tạo sự tương phản
Người bệnh Alzheimer thậm chí sẽ quên mất việc phân biệt đâu là đồ ăn, hoặc đâu là đĩa/bát ăn của riêng mình cũng như phân biệt giữa các món ăn với nhau. Họ sẽ không biết phải làm gì hay ăn gì.
Bạn nên làm gì? Sử dụng đĩa mẫu trắng sẽ giúp người thân của bạn phân biệt được đồ ăn trên đĩa. Tương tự như vậy, sử dụng sự tương phản màu sắc sẽ giúp họ phân biệt được các món ăn khác nhau trên bàn. Không nên sử dụng khăn trải bàn hay các loại bát đĩa có nhiều màu sắc hay có họa tiết vì chúng dễ gây nhầm lẫn cho người bệnh.
Có thể đặt các bát/đĩa ăn của họ gần ngay trước mặt họ. Nếu họ ăn cùng những người khác, hãy để đồ ăn của mỗi người cách biệt và xa hơn một chút.
Để tránh việc bát đĩa bị rơi, bạn hãy sử dụng độ bám hút của mặt sau tấm trải bàn. Bạn cũng có thể dùng bát để tránh việc bị đổ đồ ăn ra ngoài. Tương tự như vậy, bạn hãy cho bệnh nhân Alzheimer dùng một chiếc thìa lớn để có thể dễ dàng xúc ăn. Đối với đồ uống hoặc súp bạn có thể cho bệnh nhân sử dụng ống hút hoặc cốc có nắp đậy.
Thứ năm, cung cấp nhiều loại thức ăn cùng một lúc
Nếu người thân của bạn thấy quá tải với nhiều món ăn trên bàn thì bạn có thể để tất cả các món ăn vào một đĩa cho họ, hoặc bạn cũng có thể chia nhỏ thành nhiều bữa trong ngày thay vì ba bữa chính.
Cắt thực phẩm thành những miếng vừa để ăn, ăn bằng tay sẽ dễ hơn, nhưng tránh các loại thực phẩm khó nhai, nuốt chẳng hạn như các loại hạt, bỏng ngô hay cà rốt sống.
Thứ sáu, hãy bỏ ra một chút thời gian của bạn
Thứ bẩy, bổ sung dinh dưỡng cân đối, hợp lý
Nếu bạn cảm thấy người thân của bạn ăn uống không đủ chất thì bạn nên chuẩn bị những đồ ăn họ ưa thích, tránh xa các chế độ ăn kiêng. Bạn có thể cung cấp một bữa sáng đầy đủ các dinh dưỡng hoặc các bữa ăn nhẹ có chứa nhiều calo như sữa nguyên bột nguyên kem. Chế độ dinh dưỡng của người bệnh Azheimer phải đảm bảo như chế dộ dinh dưỡng của những người cùng độ tuổi nhưng phải được chế biến dễ dàng co việt nhai, nuốt,
Đảm bảo dinh dưỡng cho bệnh nhân alzheimer có thể nói là một thách thức lớn với người chăm sóc nhưng lại vô cùng đáng giá. Dinh dưỡng tốt đồng nghĩa với một cơ thể khỏe mạnh, một tâm lý vũng vàng để đối mặt và giảm thiểu các khó khăn do bệnh alzheimer đem lại.
Gần đây, trên mạng xã hội lan truyền thông tin cho rằng dùng quá nhiều thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường acid folic có thể gây độc, thậm chí dẫn đến ung thư. Thực hư thông tin này ra sao?
Người lớn và trẻ em bị dị ứng đường hô hấp, chẳng hạn như viêm mũi dị ứng (viêm đường mũi sau khi tiếp xúc với chất gây dị ứng), có nguy cơ cao bị chảy máu cam.
Đốm đồi mồi là những vết sẫm màu, phẳng do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường xuất hiện trên mặt, tay và các vùng da hở khác. Hãy trao đổi với bác sĩ chuyên khoa da liễu trước khi sử dụng các biện pháp khắc phục tự nhiên.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.