Với chất đạm (Protit)
Khi đun nóng ở nhiệt độ 70 độ C thì protit đông vón lại rồi bị thoái hóa. Khi có axit, quá trình này xảy ra ở nhiệt độ thấp hơn. Quá trình đông vón vừa phải làm cho protit dễ tiêu.
Khi nấu nướng ở nhiệt độ cao quá lâu, giá trị dinh dưỡng của protit giảm đi vì tạo thành các liên kết khó tiêu.
Quá trình này hay xảy ra khi nướng, hấp thức ăn trong lò nhiệt độ cao, rán thực phẩm trong dầu mỡ quá lâu (khi thực phẩm trong dầu mỡ ở nhiệt độ có thể lên đến trên 200 độ C; khi nướng thực phẩm trên bếp than nhiệt độ có thể lên đến trên 300 độ C.
Do vậy với các thực phẩm cung cấp chất đạm như thịt, cá, trứng đều phải sử dụng nhiệt độ trên 70 độ C và nên là 100 độ C để nấu chín và diệt khuẩn (bao gồm cả vi khuẩn và virus).
Khi luộc gà (ngan, vịt), cá, chân giò, gan…. cần luộc chín kỹ, đặc biệt chú ý phần thịt sát với xương không được để còn màu hồng. Hạn chế sử dụng các thức ăn nướng, quay, rán trong lò nhiệt độ cao hoặc trong dầu mỡ lâu.
Với chất béo (Lipit)
Ở nhiệt độ không quá 102 độ C, lipit (dầu/ mỡ) không có biến đổi đáng kể ngoài hóa lỏng. Khi đung lâu ở nhiệt độ cao các axit béo không no sẽ bị oxy hóa làm mất tác dụng có ích, đồng thời các liên kết kép trong cấu trúc của các axit này bị bẻ gãy tạo thành các sản phẩm trung gian như là peroxit, aldehyt có hại đối với cơ thể.
Khi nướng thức ăn trên bếp lửa, mỡ chảy rơi xuống tạo mùi thơm nhưng thực chất đó là các carbuahydro thơm vòng không tốt cho cơ thể và đó chính là một trong các tác nhân gây ung thư.
Khi nấu nướng ở nhiệt độ cao quá lâu, giá trị dinh dưỡng của protit giảm đi vì tạo thành các liên kết khó tiêu.
Do vậy không nên tái sử dụng dầu mỡ, đã qua rán ở nhiệt độ cao. Không mua các thưc ăn rá, quay, bán sẵn (quẩy, bánh rán, gà quay…), khi thấy chảo dầu, mỡ dùng chó việc bhế biến không còn trong, đã được sử dụng nhiều lần và có màu đen cháy.
Với chất bột (Gluxit)
Gồm các loại đường đơn, đường kép, tinh bột, celloloza. Ở nhiệt độ đun sôi các loại đường đơn giản không có biến đổi đáng kể. Quá trình chế biến nóng làm cho tinh bột dễ tiêu hơn, celloloza không bị phân hủy nhưng nứt ra và trở nên mềm hơn, cho phép các dịch tiêu hóa tiếp xúc với các thành phần dinh dưỡng trong tế bào thực vật (thường celluloza tạo một lớp màmg bao bọc bên ngoài tế bào của các loại hạt, củ, rau….).
Nhưng khi chế biến ở nhiệt độ cao đặc biệt là trong môi trường không có nước, các thành phần của tinh bột cũng bị biến đổi thành khó tiêu hóa hoặc độc hai với cơ thể.
Các loại chất khoáng (canxi, phốtpho, kali, magie…) trong quá trình nấu có các biến đổi về số lượng do chúng hòa tan vào nước. Do vậy nên sử dụng thức ăn cả phần cái và phần nước.
Các vitamin chịu nhiều thay đổi nhất vì đó là những thành phần tương đối ít bền vững. Các vitamin tan trong chất béo như A, D, E, K tương đối bền vững với nhiệt độ, trong quá trình nấu nướng bình thường vitamin nhóm này bị hao hụt từ 15 – 20%.
Các vitamin tan trong nước bị mất nhiều hơn do bị hòa tan và dễ bị phân giải, nhất là trong môi trường kiềm.
Chế biến nóng hợp lý làm mất khoảng 20% vitamin nhóm B, riêng vitamin B1 tỉ lệ mất có thể cao hơn.
Do vậy ngâm thực phẩm trong nước, luộc nhiều nước rồi đổ đi, sử dụng xút (hoặc vôi) trong nấu nướng, bảo quản thức ăn lâu đều làm mất nhiều các vitamin nhóm B và vitamin nhóm C (lượng mất mát có thể tới 90%).
Trong các vitamin nhóm B thì vitamin B1 ít bền vững nhất, vitamin B2, vitamin PP hầu như không bị phân hủy. Khi luộc thịt, cá, một lượng tương đối vitamin nhóm B ra theo nước luộc.
Chế biến nóng hợp lý làm mất khoảng 20% vitamin nhóm B, riêng vitamin B1 tỉ lệ mất có thể cao hơn. Vitamin C ít bền vững nhất. Chất này không những dễ hòa tan trong nước mà còn bị oxy hóa nhanh, nhất là ở nhiệt độ cao.
Trong thời gian bảo quản lượng vitamin C cũng giảm dần. Do vậy nên chọn các loại rau, quả tươi và rửa thực phẩm gồi mới gọt, thái, cắt; khi đã thái, cắt rồi cần nấu ngay. Men oxylaza được giải phóng khi rau quả bị đụng dập cũng tham gia vào quá trình oxy hóa làm qua quả nhanh hỏng và lượng vitamin C mất đi rất nhanh.
Khi luộc, nấu rau cần cho rau vào nước đun sôi sau khi rau đã được rửa sạch (để khử tác dụng của men oxylaza), rút ngắn thời gian đun, nấu. Nấu chín xong ăn ngay cũng giúp hạn chế hao hụt vitamin C. Người ta ước tính lượng vitamin C mất do nấu nướng khoảng như sau: vitamin C: 50%; vitamin B1: 30%; Caroten: 20%.
Tóm lại: cần chế biến nóng thích hợp để đảm bảo các chất dinh dưỡng không bị biến dạng, hao hụt và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm giúp cơ thể hấp thu, sử dụng tốt các thành phần dinh dưỡng và ngăn ngừa việc sản sinh ra các chất độc hại.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Mẹ bầu nên chăm sóc dinh dưỡng cho bào thai trong thai kỳ thế nào?
Bưởi là loại trái cây ngon giúp giảm cân nhờ hàm lượng calo thấp và chất xơ cao. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi ích của bưởi trong việc giảm cân, cần lưu ý ăn bưởi một cách khoa học.
Mùa mưa mang đến cảm giác dễ chịu, mát mẻ, giúp xua tan cái nóng oi bức của mùa hè. Tuy nhiên, đi kèm với những cơn mưa mát lành lại là nguy cơ gia tăng nhiều vấn đề sức khỏe, đặc biệt là các bệnh ngoài da do nấm. Độ ẩm cao, môi trường ẩm ướt và điều kiện sinh hoạt thiếu thông thoáng là những yếu tố tạo điều kiện lý tưởng cho vi nấm phát triển mạnh, tấn công làn da và móng của con người.
Bên cạnh chế độ ăn uống và luyện tập khoa học, lựa chọn đúng loại đồ uống vào buổi sáng có thể giúp thúc đẩy quá trình trao đổi chất, hỗ trợ giảm cân, giảm mỡ một cách hiệu quả.
Mệt mỏi đi kèm với ung thư như trong bệnh đa u tủy khác với sự mệt mỏi mà bạn có thể đã từng cảm thấy trước đây. Nó có thể là sự kiệt sức sâu trong xương tủy và không thể cải thiện khi bạn nghỉ ngơi.
Mỡ thừa ở cánh tay không chỉ gây mất thẩm mỹ mà còn khiến nhiều người tự ti khi diện những bộ đồ sát nách, áo ngắn tay... Để sở hữu cánh tay thon gọn, săn chắc, ngoài việc tập luyện cần có chế độ ăn uống lành mạnh. Thường xuyên ăn những thực phẩm dưới đây có thể hỗ trợ giảm mỡ cánh tay hiệu quả.
Chất béo lành mạnh đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ da. Chúng không chỉ giúp giữ ẩm, duy trì sự dẻo dai của làn da mà còn có đặc tính chống viêm và chống oxy hóa, giúp giảm thiểu tổn thương do tia UV gây ra.
Chu kỳ kinh nguyệt là một phần tự nhiên và thiết yếu trong cuộc đời mỗi người phụ nữ, phản ánh sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng thể của họ. Đây là một quá trình sinh học phức tạp, được điều hòa bởi nội tiết tố, chuẩn bị cơ thể cho khả năng mang thai hàng tháng. Hiểu rõ về chu kỳ kinh nguyệt giúp phụ nữ nhận biết những thay đổi bình thường của cơ thể, từ đó chủ động hơn trong việc chăm sóc sức khỏe bản thân.
Giãn cơ không chỉ giúp cơ thể dẻo dai hơn mà còn giảm nguy cơ chấn thương, xua tan nhức mỏi và mang lại cảm giác nhẹ nhõm, tinh thần tỉnh táo hơn...