Với những bệnh nhân COVID chỉ viêm đường hô hấp trên, tức là không bị viêm phổi, thì không có biến chứng hậu COVID xơ phổi.
Có hơn 200 yếu tố góp phần gây tình trạng xơ phổi. Hơn 200 yếu tố là con số cho thấy sự quá phức tạp, nhưng tựu trung lại xơ phổi là hậu quả của phản ứng viêm.
Hai con đường chính dẫn đến tình trạng nghiêm trọng này:
Nhiễm virus gây tổn thương trực tiếp đến phổi: Do virus gây tổn thương nhu mô phổi, tình trạng này diễn ra dai dẳng kéo dài khiến cho phản ứng chữa lành vết thương diễn ra bất thường, phổi bị xơ hoá.
Phản ứng của hệ miễn dịch: Virus xâm nhập, hệ miễn dịch được kích hoạt. Các đại thực bào, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, tế bào Th2 tập trung tại vị trí tổn thương, giải phóng một lượng lớn các chất trung gian hoá học như TGF-β, TNF-α, MMPs, IL (IL-1, IL-4, IL-5, IL-6, IL-13 và IL-17). Các thành phần đó vừa có tác dụng chống viêm, vừa đóng vai trò chất tiền xơ, ví dụ TGF-β làm tăng trưởng biến đổi tổ chức mô phổi, TNF-α tăng hoại tử tạo u hạt sau viêm.
Một nghiên cứu tổng hợp từ 24 nghiên cứu trên khắp thế giới đã chỉ ra rằng, bệnh nhân viêm phổi do Covid tính trạng xơ phổi không chỉ xảy ra trong thời kì mắc bệnh, mà còn tiếp tục tiến triển cho đến 3 tháng sau khi xuất viện. Có tới 59% trường hợp viêm phổi do Covid có tổn thương dai dẳng nhu mô phổi. Các hình thái tổn thương phổ biến nhất trên phim cắt lớp vi tính ngực bao gồm: 39% kính mờ loang lổ, 33% dày tổ chức kẽ hoặc dày vách ngăn tiểu thuỳ, 31% dải xơ trong nhu mô, 26% biến dạng bó mạch phế quản hoặc giãn phế quản trong tiểu thuỳ, 11% phản ứng dày màng phổi, 6% đông đặc nhu mô phổi. |
Một nghiên cứu quan sát bệnh nhân viêm phổi trong dịch SARS năm 2003 do virus SARS-CoV-1 gây ra, cho thấy khoảng 80% bệnh nhân xơ phổi hồi phục trong vòng 1 năm, khoảng 20% tổn thương vẫn tồn tại sau 5-10 năm.
Các nghiên cứu viêm phổi do MERS-CoV cũng vậy, biến chứng xơ phổi tiến triển trong 4 tháng đầu sau khi xuất viện, nhưng hầu hết bệnh nhân phục hồi trong vòng một năm.
Cúm H5N1 xơ phổi xuất hiện rất sớm, nhưng kết quả chụp CT ngực cho thấy sau một năm mức độ xơ tự hồi phục đáng kể, đa số chỉ còn tổn thương xơ hoá nhu mô dạng dải.
Nhưng cúm gia cầm H7N9 thì thời gian hồi phục kéo dài hơn.
Kết quả chụp CT những bệnh nhân viêm phổi do H7N9 cho thấy, tổn thương xơ hoá phổi 6 tháng sau khi ra viện cải thiện không đáng kể so với phim chụp 3 tháng. Thời điểm 12 tháng, có khoảng 15% bệnh nhân xơ phổi gần như hồi phục hoàn toàn. Những trường hợp xơ nặng, sau 2 năm chụp lại tổn thương vẫn tồn tại.
Hàng loạt các virus khác cũng gây tổn thương xơ hoá phổi, trong số đó phải kể đến HIV, Cytomegalovirus (CMV), Epstein – Barr (EBV), Murine γ-herpesvirus 68 ( MHV-68)…
Hình thái xơ phổi của tất cả các loại virus đều giống nhau, bao gồm kính mờ loang lổ, dày tổ chức kẽ hoặc dày vách ngăn tiểu thuỳ, dải xơ trong nhu mô, biến dạng bó mạch phế quản hoặc giãn phế quản trong tiểu thuỳ, phản ứng dày màng phổi, đông đặc nhu mô phổi.
Trong hơn 200 yếu tố gây xơ phổi, cơ chế chung đều giống nhau theo hai con đường mà tôi đề cập, từ SARS-CoV-2 cho đến các virus cơ chế gây xơ phổi có sự tương đồng hầu hết, mặc dù mỗi loại virus vẫn có một vài yếu tố nổi bật nổi bật hơn.
Đến đây bạn đọc có thể hiểu, viêm phổi do virus nào đi chăng nữa, thì di chứng xơ phổi đều xuất hiện ở một số trường hợp, thậm chí các virus khác xơ phổi còn nghiêm trọng hơn Covid, ví dụ như cúm gia cầm H7N9 chẳng hạn.
Nghiên cứu khác ở Trung Quốc, thực hiện trên 120 bệnh nhân viêm phổi do Covid, kết quả chụp CT 6 tháng sau khi ra viện, tổn thương xơ hoá phổi đã giảm đi đáng kể.
Những bệnh nhân sau điều trị viêm phổi do Covid, nếu xuất hiện ít nhất một trong các dấu hiệu sau, thì nên đi khám tình trạng xơ phổi.
Khó thở: Nếu có tình trạng khó thở, thở hổn hển, thì phải đi khám ngay. Những trường hợp kín đáo hơn, có thể phát hiện bằng cách đi bộ với đồng hồ đếm ngược 6 phút, nếu quá trình đi thấy mệt, khó thở, phải dừng lại để nghỉ, quãng đường đi không đạt 500 mét; là những dấu hiệu cảnh báo có tình trạng xơ phổi. Lưu ý những người có tiền sử đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim trong vòng một tháng, thì không thử đi bộ 6 phút. Những trường hợp nhịp tim trên trên 120 lần mỗi phút khi nghỉ ngơi, huyết áp tâm thu trên 180mmHg, huyết áp tâm trên 100mmHg cũng không thử đi bộ 6 phút.
Sút cân không rõ nguyên nhân.
Mệt mỏi kéo dài.
Ho khan kéo dài.
Đau nhức khắp cơ thể kéo dài.
Đầu ngón tay ngón chân tròn như dùi trống.
Ngoài ra, có những trường hợp viêm phổi do Covid nhưng vẫn tự điều trị tại nhà, nên để phát hiện cần biết những dấu hiệu quan trọng.
Nếu xét nghiệm Covid dương tính, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết viêm phổi như nhịp thở tăng (trên 60 lần/phút với trẻ dưới 2 tháng tuổi, trên 50 lần/phút với trẻ từ 2 - 11 tháng tuổi, trên 40 lần/phút với trẻ từ 12 - 60 tháng tuổi, trên 30 lần/phút với trẻ lớn và người lớn). Dấu hiệu tiếp theo là chỉ số SpO2 < 94%.
Tuỳ theo từng điều kiện của cơ sở y tế, bác sĩ có thể khám lâm sàng, sử dụng các thăm khám để phát hiện tình trạng xơ phổi, mức độ ảnh hưởng.
Chụp Xquang phổi: Khi các biểu hiện lâm sàng không có tình trạng viêm phổi trong thời kì nhiễm virus, tại thời điểm khám bác sĩ không thấy những dấu hiệu của suy giảm chức năng hô hấp, thì chỉ cần chụp phim Xquang tim phổi là đủ.
Chụp cắt lớp vi tính phổi: Nếu phim Xquang có tổn thương, hoặc tiền sử viêm phổi do Covid rõ ràng, hay tình trạng khó thở suy giảm chức năng hô hấp, thì bác sĩ chỉ định chụp CT để chẩn đoán chính xác; tốt nhất nên chụp CT độ phân giải cao.
Thực hiện test đi bộ 6 phút: Đây là một tham khám dễ thực hiện, đánh giá hiệu quả chức năng hô hấp của bệnh nhân. Cách thực hiện là cho bệnh nhân đi bộ trong 6 phút, đánh giá tình trạng mệt và khó thở theo bảng điểm Borg, đánh giá quãng đường người bệnh đi được trong thời gian 6 phút, đánh giá không hoàn thành bài test như phải nghỉ giữa chừng hoặc phải dừng test khi chưa đủ 6 phút.
Đo chức năng hô hấp: Thể tích thở ra tối đa trong 1 giây đầu tiên sau khi đã hít vào gắng sức (FEV1), dung tích sống gắng sức (FVC), tỉ lệ FEV1 / FVC, lưu lượng khí thở ra gắng sức (FEF) từ khoảng 25–75%, lưu lượng thở ra đỉnh (PEF).
Các xét nghiệm máu thường quy, xét nghiệm chức năng gan và thận, xét nghiệm đường huyết lúc đói, xét nghiệm Lipid máu, xét nghiệm kháng thể Immunoglobulin G...
Hầu hết bệnh nhân xơ phổi do các virus khác đều tự hồi phục sau 6 tháng đến 1 năm, số ít để lại di chứng nhiều năm, thậm chí tổn thương vĩnh viễn.
Đại dịch Covid mới diễn ra hơn 2 năm.
Nhưng viêm phổi do Covid cũng vậy, di chứng xơ phổi có một tỉ lệ nhất định, ước chừng 2-6% xơ phổi nếu dựa vào kinh nghiệm viêm phổi do các nhóm coronavirus, càng người già và mắc các bệnh nền càng dễ bị xơ phổi.
Tổn thương xơ phổi hậu Covid cũng hầu hết tự khỏi.
Cũng giống như xơ phổi do các virus khác gây nên, một số trường hợp bác sĩ sẽ cho dùng kháng sinh, thuốc ức chế miễn dịch corticosteroid, thuốc chống xơ hóa hoặc các loại thuốc khác.
Nên phát hiện sớm xơ phổi để quản lí sức khoẻ ngay từ giai đoạn đầu. Tập thể dục thường xuyên, bổ sung dinh dưỡng, bỏ thuốc lá, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh; đó là cách để khắc phục xơ phổi trong một chặng đường dài.
Tập thể dục hàng ngày với bài tập sức bền.
Thực hành kĩ thuật thở.
Tư vấn chế độ dinh dưỡng.
Bổ sung vitamin đầy đủ.
Thực hiện các biện pháp nâng cao miễn dịch.
Không hút thuốc và tránh hút thuốc thụ động.
Dùng thuốc theo lời khuyên của bác sĩ.
Xơ phổi hậu COVID cũng tương tự như các tình trạng viêm phổi do các virus khác gây nên, đó là di chứng tất yếu sau viêm phổi, thông thường 80% hồi phục từ 6 tháng đến 1 năm. Hiểu về tình trạng này để không sợ hãi. Thực tế, hàng ngày tôi khám nhiều bệnh nhân sau Covid, hầu hết khoẻ mạnh bình thường, nhưng sự lo lắng thì có thật, đặc biệt không ít trường hợp bị xơ phổi mọi người dễ bị hoảng loạn, nghe theo nhiều lời đồn thổi tự điều trị. Đã đến lúc chúng ta cần hiểu sâu sắc hơn về bệnh lí này để đối mặt với nó, thay vì còn nhiều người đang chui vào nhà lẩn trốn suốt hai năm qua.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Tổn thương phổi vĩnh viễn hậu COVID-19.
Lỵ trực khuẩn là tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cấp tính và cần được điều trị kịp thời để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm.
Khi mùa thi đến gần, học sinh bước vào giai đoạn căng thẳng và áp lực cao, đòi hỏi sự tập trung tối đa cũng như khả năng ghi nhớ và tư duy sắc bén. Bên cạnh việc học tập chăm chỉ, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khỏe não bộ, giúp kiểm soát lo âu và tối ưu hóa hiệu suất học tập.
Trong bối cảnh các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa ung thư, chế độ ăn uống, đặc biệt là việc tiêu thụ trái cây và rau quả, được xem là một yếu tố quan trọng. Cà chua, với thành phần lycopene nổi bật, đang thu hút sự chú ý đặc biệt.
Việc thiết lập lịch trình ngủ và thói quen trước khi đi ngủ, đặt đồng hồ báo thức và điều chỉnh chế độ ăn uống là một số phương pháp có thể giúp bạn ngủ ngon hơn và thức dậy dễ dàng vào buổi sáng.
Tuy không có chế độ ăn kiêng đặc biệt nào có thể chữa khỏi hội chứng thiên thần nhưng dinh dưỡng hợp lý có thể giúp kiểm soát cân nặng, cải thiện giấc ngủ, quản lý táo bón và hỗ trợ phát triển nhận thức.
Dậy thì là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi người, đánh dấu sự chuyển đổi từ trẻ em sang người trưởng thành. Đây là giai đoạn cơ thể có nhiều thay đổi về mặt thể chất và tâm sinh lý, đặt nền móng cho sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng quát trong tương lai. Việc thấu hiểu những biến đổi này, cùng với sự quan tâm, hỗ trợ từ gia đình và xã hội, sẽ giúp thanh thiếu niên vượt qua giai đoạn dậy thì một cách an toàn và khỏe mạnh.
Bệnh lao hạch gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và khả năng ăn uống. Việc phát hiện sớm, điều trị đúng phác đồ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe.
Bạn có thể dùng salad như một bữa ăn lành mạnh hoặc món ăn kèm, nhưng salad có thể gây ra một số vấn đề về tiêu hóa tùy thuộc vào thành phần của nó. Rau và trái cây sống là những thực phẩm có thể gây đầy hơi và chướng bụng do một số hợp chất và vi khuẩn, và chúng có thể là lý do tại sao bạn có thể bị đau bụng dữ dội sau khi ăn salad.