Thuật ngữ “viêm cơ tim” làm người ta liên tưởng đến nguyên nhân do nhiễm trùng. Tuy nhiên, viêm cơ tim còn do những nguyên nhân khác ngoài nhiễm trùng và nguyên nhân gây ra viêm cơ tim rất đa dạng, đôi khi người ta cũng không tìm thấy một nguyên nhân nào.
Mọi người thường nghĩ rằng: các tác nhân gây bệnh nêu trên sẽ tấn công trực tiếp làm tổn thương tế bào cơ tim nhưng chỉ có phần nhỏ trường hợp là như vậy. Một số trường hợp khác là do độc tố của vi trùng (như vi trùng bạch hầu) nhưng nhiều chuyên gia cho rằng cơ chế tổn thương do miễn dịch gặp nhiều nhất. Trong các trường hợp bị nhiễm virút chẳng hạn khi virút không còn trong cơ thể thì viêm cơ tim vẫn tiến triển. Các tác nhân gây bệnh làm kích hoạt đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào dẫn đến tổn thương cơ tim. Đây là một dạng tự miễn dịch (người ta tìm thấy các cytokin trong cơ tim).
Có rất nhiều biểu hiện khác nhau ở bệnh nhân viêm cơ tim, người gặp triệu chứng này người gặp triệu chứng khác. Người bệnh có thể bị đau ngực nhẹ, sốt, khó thở hoặc nếu viêm do virút thì sẽ có triệu chứng bị cúm trước đó 1 - 2 tuần: sốt, đau nhức cơ khớp, mệt mỏi, viêm hô hấp trên. Một số trường hợp bị rối loạn nhịp tim khiến họ vào bệnh viện và được chẩn đoán viêm cơ tim. Trong phần lớn các trường hợp chẩn đoán viêm cơ tim do bệnh nhân khỏe mạnh bình thường đột nhiên bị suy tim trái cấp và suy tim này hồi phục sau khi điều trị tích cực. Dựa trên bất thường ở tim khi thăm khám kết hợp với siêu âm tim, điện tâm đồ, thông tim, sinh thiết nội mạc cơ tim, xét nghiệm máu… có thể chẩn đoán xác định bệnh viêm cơ tim. Xét nghiệm máu cho thấy tình trạng viêm nhiễm và tổn thương tế bào cơ tim (men tim tăng). Một số trường hợp bệnh nhân đau ngực, xét nghiệm men tim tăng được chẩn đoán nhầm với nhồi máu cơ tim cấp.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.