Nhằm cung cấp những thông tin cập nhật đầy đủ về bệnh sởi, Rubella, các biện pháp phòng bệnh cũng như những điều cần biết về vắc-xin phối hợp sởi - Rubella trong Chiến dịch tiêm vắc-xin sởi - Rubella cho trẻ 1 - 14 tuổi trên toàn quốc; Dự án Tiêm chủng mở rộng - Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đã biên soạn cuốn “Hỏi đáp về bệnh sởi và bệnh Rubella”.
Báo SK&ĐS xin cung cấp tới độc giả nội dung cuốn sổ tay hỏi đáp, hy vọng sẽ giải đáp những thắc mắc, tư vấn cho cha mẹ và cộng đồng những thông tin hữu ích trong quá trình triển khai vắc-xin này.
6. Lịch tiêm vắc-xin sởi và vắc-xin sởi - Rubella trong Chương trình TCMR ở Việt Nam là như thế nào?
Trong tiêm chủng thường xuyên: Đối với vắc-xin sởi, tiêm mũi thứ nhất cho trẻ 9 tháng tuổi và mũi thứ hai khi trẻ 18 tháng tuổi.
Trong chiến dịch tiêm tiêm vắc-xin sởi - Rubella năm 2014 - 2015: Tất cả trẻ em từ 1 tuổi đến 14 tuổi được tiêm 1 mũi vắc-xin phối hợp sởi - Rubella.
7. Nữ tuổi sinh đẻ có cần tiêm vắc-xin Rubella?
Phụ nữ có thai chưa được tiêm phòng bệnh Rubella trước thời gian mang thai, nếu nhiễm virut Rubella trong 3 tháng đầu của kỳ mang thai có thể truyền virut sang cho thai nhi gây hội chứng Rubella bẩm sinh. Vì vậy phụ nữ cần được tiêm chủng vắc-xin Rubella trước khi có kế hoạch mang thai ít nhất 1 tháng.
8. Trường hợp nào cần chống chỉ định hoặc tạm hoãn tiêm vắc-xin sởi - Rubella?
Không tiêm vắc-xin sởi - Rubella trong các trường hợp sau:
Có tiền sử sốc hoặc có phản ứng nghiêm trọng sau tiêm chủng vắc-xin chứa thành phần sởi hoặc Rubella như: sốt cao trên 39oC kèm co giật hoặc dấu hiệu não/màng não, tím tái, khó thở, sốc.
Dị ứng với bất kỳ thành phần nào có trong vắc-xin, ví dụ với neomycin.
Có tình trạng suy chức năng các cơ quan (như suy hô hấp, suy tuần hoàn, suy tim, suy thận, suy gan).
Tình trạng suy giảm miễn dịch nghiêm trọng bẩm sinh hoặc mắc phải (AIDS).
Phụ nữ có thai.
Các trường hợp chống chỉ định khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Tạm hoãn tiêm vắc-xin sởi - Rubella trong các trường hợp sau:
Mắc các bệnh cấp tính, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng.
Trẻ sốt ≥ 37,5oC hoặc hạ thân nhiệt ≤ 35,5oC (đo nhiệt độ tại nách).
Trẻ mới dùng các sản phẩm globulin miễn dịch hoặc truyền máu, huyết tương trong vòng 3 tháng trừ trường hợp trẻ đang sử dụng globulin miễn dịch điều trị viêm gan B. Do vậy trong vòng 2 tuần sau tiêm vắc-xin không nên sử dụng sản phẩm globulin miễn dịch.
Trẻ đang hoặc mới kết thúc liều điều trị corticoid (uống, tiêm) trong vòng 14 ngày, thuốc ức chế miễn dịch khác hay điều trị xạ trị.
Mắc bệnh bạch cầu cấp, thiếu máu nặng, các bệnh máu nghiêm trọng khác hoặc truyền máu.
Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
9. Các trường hợp dị tật, suy dinh dưỡng, nhiễm HIV có thuộc diện chống chỉ định hoặc tạm hoãn tiêm vắc-xin sởi - Rubella không?
Các trường hợp dị tật nhưng không suy tuần hoàn, suy hô hấp, suy gan, suy thận và không thuộc các chống chỉ định hay tạm hoãn nêu tại câu 8 thì không chống chỉ định hoặc hoãn tiêm vắc-xin sởi, Rubella.
Trường hợp suy dinh dưỡng không thuộc diện chống chỉ định tiêm vắc-xin sởi - Rubella.
Các trường hợp nghi nhiễm HIV hoặc nhiễm HIV nhưng chưa chuyển sang giai đoạn AIDS không thuộc diện chống chỉ định tiêm vắc-xin sởi - Rubella.
10. Tiêm vắc-xin sởi - Rubella cho phụ nữ mang thai sẽ có ảnh hưởng gì?
Không nên dùng vắc-xin sởi - Rubella cho phụ nữ mang thai vì đây là vắc-xin sống, giảm độc lực. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, việc thận trọng tránh tiêm vắc-xin Rubella cho phụ nữ có thai là để phòng ngừa nguy cơ gây dị tật thai nhi theo lý thuyết mặc dù nguy cơ này chưa được chứng minh. Tuy nhiên, trên thực tế không ghi nhận tiêm vắc-xin sởi - Rubella trong khi mang thai gây sẩy thai. Không ghi nhận trường hợp hội chứng Rubella bẩm sinh đối với trên 1.000 trường hợp phụ nữ mang thai vô tình được tiêm vắc-xin Rubella trong thời gian đầu thai kỳ. Do đó, nên tiêm vắc-xin trước khi có kế hoạch mang thai ít nhất từ 1 tháng trở lên.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.