Gút là một bệnh khớp gây ra bởi tăng acid uric máu và lắng đọng các tinh thể urat trong khớp gây các đợt viêm khớp cấp tính. Bệnh thường gặp ở nam giới có cơ thể khỏe mạnh, mập mạp, tuổi từ 35 đến 45. Viêm khớp cấp tính do gút nổi bật với các triệu chứng khởi bệnh đột ngột, diễn biến từng đợt, xuất phát thường là từ các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón cái bàn chân. Cơn gút cấp gây sưng nóng đỏ đau dữ dội, khiến cho bệnh nhân đau đớn và không thể đi lại được bình thường. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run...
Trên thực tế, rất nhiều người hiểu nhầm chứng tăng acid uric máu là bệnh gút và dùng thuốc điều trị gút. Vì vậy, cần phân biệt thế nào là chứng tăng acid uric và thế nào là bệnh gút? Trường hợp acid uric trong máu rất cao do nó được tạo ra nhiều mà thải ra ít thì người ta gọi là tăng acid uric máu chứ không gọi là bệnh gút. Chỉ coi là có bệnh gút khi tăng acid uric máu đi kèm với sự lắng đọng acid uric và gây tổn thương ở khớp hay những tổ chức khác. Thuốc để điều trị những cơn viêm khớp do gút khác với điều trị tăng acid uric trong máu.
Thuốc corticoid: Các cơn đau dữ dội trong bệnh khớp (viêm khớp, thoái hóa khớp...) khiến bệnh nhân đứng ngồi không yên và thường tìm kiếm sử dụng một loại thuốc cổ điển - đó là các thuốc corticoid. Thậm chí nhiều bệnh nhân còn dùng đồng thời thuốc Đông y trong đó đã bị trộn cả thuốc chứa corticoid mà không hay biết. Việc bệnh nhân tự điều trị bệnh khớp bằng các thuốc chứa corticoid như prednisolon, dexamethason... trở nên đáng báo động, vì corticoid là “dao hai lưỡi” rất sắc. Thuốc chứa corticoid có thể làm giảm nhanh chóng các triệu chứng đau khớp nhưng về lâu dài lại gây ra rất nhiều tác dụng phụ như tăng huyết áp, đục thủy tinh thể, đái tháo đường và gút... Nguyên nhân gây gút của corticoid là do thuốc cạnh tranh thải tiết với acid uric ở ống thận do vậy làm giảm bài tiết acid uric khiến nồng độ acid uric tăng cao trong máu, quá ngưỡng hòa tan của acid uric trong máu, làm các tinh thể muối urat kết tủa trong khớp gây ra cơn gút cấp. Chính vì vậy, bệnh nhân mắc bệnh khớp không được lạm dụng thuốc chứa corticoid. Một điều cần chú ý nữa là thậm chí tiêm corticoid nội khớp cũng có thể gây viêm màng hoạt dịch khớp cấp tính. Phản ứng viêm có thể xuất hiện sau tiêm từ 2-24 giờ. Dịch khớp nhiều bạch cầu, thậm chí có dạng mủ, chứa nhiều vi tinh thể của thuốc nằm trong và ngoài tế bào.
Người bệnh gút dùng thuốc cần đề phòng các yếu tố nguy cơ khiến bệnh nặng hơn.
Aspirin: Là loại thuốc kinh điển (được phát minh từ hơn 100 năm nay) thuộc nhóm thuốc chống viêm không steroid. Suốt nửa thế kỷ đầu tiên kể từ khi đưa vào sử dụng, aspirin luôn được dùng rộng rãi trong điều trị viêm khớp, dù có nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như viêm, loét dạ dày tá tràng và xuất huyết tiêu hóa. Tuy nhiên, kể từ khi những thuốc chống viêm không sterroid khác hiệu quả và an toàn hơn ra đời thì aspirin ngày càng ít được sử dụng như thuốc chống viêm khớp. Ngày nay, aspirin liều thấp lại được khuyến cáo sử dụng chống ngưng kết tập tiểu cầu, dự phòng các biến chứng tắc mạch do huyết khối, cũng như vẫn còn được sử dụng như là thuốc hạ sốt, giảm đau. Tuy nhiên, dùng aspirin liều thấp (ít hơn 2g/ngày) cũng là nguyên nhân của bệnh gút thứ phát, liều cao trên 2g/ngày lại tăng thải acid uric qua thận dẫn đến giảm acid uric máu.
Thuốc lợi tiểu: Bao gồm các thuốc nhóm tác dụng lên quai thận (ethacrynic acid, furosemide...), nhóm thiazide (bendroflumethiazide, chlorthalodone, hydrochlorothiazide...), nhóm giữ K+ (amiloride, spironolactone, triamterene)...
Thuốc lợi tiểu là thuốc cần thiết cho bệnh nhân tim mạch như: suy tim, tăng huyết áp; bệnh thận (viêm cầu thận, suy thận)... Các thuốc lợi tiểu được chỉ định dùng trong điều trị phù do suy tim, xơ gan, suy thận cấp hay mạn tính, hội chứng thận hư... được dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc hạ huyết áp khác để điều trị tăng huyết áp. Tất cả các thuốc lợi tiểu (trừ spironolacton là không ảnh hưởng đến thải trừ acid uric) đều có khả năng làm tăng acid uric máu dẫn đến bệnh gút do làm giảm thải tiết acid uric qua ống thận. Vì vậy, người bệnh phải dùng thuốc lợi tiểu cần theo dõi nồng độ acid uric máu hoặc dấu hiệu cơn gút cấp có thể xảy ra thì phải giảm liều thuốc lợi tiểu. Cần nhớ việc giảm liều thuốc do bác sĩ chỉ định khi tình trạng lâm sàng của bệnh nhân đáp ứng.
Thuốc chống lao: Các thuốc được chỉ định trong phác đồ thuốc điều trị bệnh lao hiện nay (thường phải kết hợp nhiều thuốc như streptomycin, rifampicin, isoniazid, ethambutol, pyrazinamid...) là một trong các thủ phạm chính gây tăng acid uric máu và có thể dẫn đến bệnh gút. Cụ thể, pyrazinamid gây tăng cao acid uric, có thể khởi động cơn gút cấp sau vài tuần dùng thuốc, ethambutol làm xuất hiện các các cơn gút cấp do làm giảm thải tiết acid uric niệu. Tuy nhiên, phản ứng tăng acid uric lại chứng tỏ bệnh nhân tuân thủ dùng thuốc trị lao và không cần dùng thuốc hạ acid uric máu nếu chưa xảy ra cơn gút cấp. Việc dùng thuốc điều trị lao là vô cùng cần thiết, nên người bệnh không được tự ý bỏ thuốc ngay cả khi có cơn đau khớp do bệnh gút cấp.
Các thuốc khác: Một số thuốc có tiềm năng gây gút thứ phát như omeprazol, các thuốc hóa trị điều trị ung thư, đặc biệt ung thư máu dòng tủy cũng làm gia tăng phá hủy tế bào, tăng sản xuất ra acid uric và do đó có thể gây nên cơn gút cấp tính.
Trên thực tế, không có một chế độ ăn uống nào dùng chung được cho tất cả người bệnh đái tháo đường. Chế độ ăn uống cần phải được “cá thể hóa”, tức là xây dựng cho riêng từng người bệnh cụ thể. Để xây dựng chế độ ăn phù hợp, người bệnh cần tuân thủ 5 nguyên tắc quan trọng trong bài viết sau.
Khi bị stress, đau nhức đầu, nhiều người tìm tới thức uống giúp giải tỏa mệt mỏi như trà. Tuy nhiên, liệu trà nhiều caffeine và tannin có giúp giảm đau đầu hiệu quả?
Theo các thống kê collagen là một trong những chất bổ sung phổ biến và thị trường tiêu thụ ngày càng tăng. Nhưng trước khi bạn đổ tiền vào các gian hàng thực phẩm bổ sung, bạn nên biết rằng không phải tất cả những tuyên bố về lợi ích của collagen đều có cơ sở khoa học.
Vitamin B12 là dưỡng chất rất cần thiết cho các tế bào thần kinh và tế bào máu đỏ và cũng cần thiết cho sự hình thành ADN.
Mổ đẻ là phẫu thuật lấy thai ra ngoài qua đường cắt ở vùng bụng và tử cung, được thực hiện khi sinh thường qua âm đạo có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của mẹ hoặc thai nhi. Mặc dù sinh mổ ngày nay đã an toàn hơn nhờ sự tiến bộ của y học, phương pháp này vẫn tiềm ẩn một số rủi ro và tác dụng phụ đối với cả người mẹ và trẻ sơ sinh.
Việc trang điểm nhẹ nhàng trước khi đến phòng tập thể dục có thể giúp chị em phụ nữ tự tin hơn. Nhưng theo một nghiên cứu mới được đăng trên Journal of Cosmetic Dermatology, việc này có thể có thể làm giảm lượng dầu trên da, gây khô da.
Sinh tố là thức uống bổ sung năng lượng và vitamin hiệu quả khi bạn mệt mỏi vì thời tiết. Công thức pha chế sinh tố nên có những thực phẩm, nguyên liệu giàu chất chống viêm để bảo vệ sức khỏe.
Vitamin dành cho bà bầu là những viên bổ sung được sản xuất đặc biệt nhằm cung cấp cho cơ thể phụ nữ mang thai các vitamin và khoáng chất cần thiết. Bác sĩ khuyên bạn uống vitamin ngay từ khi bắt đầu lên kế hoạch mang thai cũng như trong suốt thai kỳ.