Rối loạn giấc ngủ ở trẻ là một vấn để có thể ảnh hưởng đến trẻ ngay từ 6 tháng tuổi, nếu không được điều trị nó có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành. Ở mỗi độ tuổi, trẻ sẽ có nhu cầu về thời gian ngủ khác nhau, ở trẻ sơ sinh có thể ngủ từ 18 - 20 tiếng mỗi ngày, mỗi giấc kéo dài từ 30 phút - 3 giờ đồng hồ.
Quan trọng là ở trẻ sơ sinh giấc ngủ không có quy luật, trẻ có thể ngủ nhiều hơn vào ban đêm hoặc ban ngày, trong trường hợp trẻ ngủ vào ban ngày nhiều thì ban đêm sẽ thức nhiều hơn. Nhưng ở một số trường hợp nào đó, trẻ có thể ngủ ít hơn hay thức xuyên cả ngày hay đêm thì đồng nghĩa với việc trẻ đang phải đối mặt với chứng rối loạn giấc ngủ.
Một số nghiên cứu cho thấy có khoảng 25% - 30% số lần phụ huynh cùng trẻ đi khám có liên quan đến các vấn đề về rối loạn giấc ngủ.
Khi bị rối loạn giấc ngủ, trẻ thường khó đi vào giấc ngủ, hay thức giấc vào ban đêm hoặc thức giấc vào sáng sớm.
Trẻ mệt mỏi, buồn ngủ vào ban ngày và tình trạng này có thể lặp đi lặp lại khiến trẻ uể oải, ủ rũ, khó chịu suốt cả ngày. Đôi khi cản trở sự phát triển cả về thể chất và trí tuệ của trẻ.
Rối loạn giấc ngủ không chỉ xảy ra với người lớn mà còn xảy ra ở trẻ em.
(Ảnh minh hoạ)
Mỗi trẻ có một nhu cầu, thói quen cũng như những vấn đề khác nhau liên quan đến giấc ngủ. Vì vậy, cha mẹ phải biết con mình cần ngủ bao nhiêu, sau đó không cho con bạn thức khuya hay ngủ nướng vào cuối tuần.
- Cha mẹ nên nhắc nhở, khuyến khích con đi ngủ và dậy vào cùng 1 thời điểm trong ngày. Điều này giúp đồng hồ sinh học của cơ thể hoạt động nhịp nhàng.
- Cha mẹ cần tạo thói quen trước khi đi ngủ bằng cách hãy dành khoảng 40 phút cho trạng thái thả lỏng, thư giãn trước khi lên giường. Những hoạt động có thể kể đến như tắm bằng nước ấm, uống sữa ấm, viết nhật ký, đọc truyện sách, nghe các bản nhạc nhẹ nhàng...
- Cha mẹ cần ngắt các thiết bị điện tử trong phòng ngủ ít nhất 1 giờ trước khi đi ngủ. Tất cả các kích thích bao gồm: Loa, điện thoại di động, màn hình vi tính và ti vi... Giới hạn ngay từ khi trẻ còn nhỏ để tránh những điều này trước khi đi ngủ.
Không cho phép con bạn sử dụng các thiết bị điện tử trước khi đi ngủ. Hãy nhớ những gì trẻ đang uống, vì thức uống có chứa chất kích thích như sô-cô-la và sữa sô-cô-la có thể khiến trẻ khó đi vào giấc ngủ hơn. Hạn chế uống các chất kích thích sau 15 giờ. Ngay cả khi trẻ dậy thì, trẻ bắt đầu tiết ra hoóc môn Melatonin vào giờ muộn hơn về đêm so với trẻ nhỏ, điều này đã ảnh hưởng đến nhịp ngày đêm của trẻ, khiến trẻ đi ngủ muộn hơn và dậy muộn hơn vào sáng hôm sau. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các trẻ vị thành niên ngủ sâu và hoạt động tốt hơn vào ban ngày nếu bố mẹ thiết lập giờ ngủ cho trẻ vào buổi tối.
Cha mẹ nên nhắc nhở, khuyến khích con đi ngủ và dậy vào cùng 1 thời điểm trong ngày.
(Ảnh minh hoạ)
- Cha mẹ chú ý đến dinh dưỡng cho trẻ để giúp con ngủ tốt hơn, trong đó trẻ cần ăn bữa sáng khoa học để giúp trẻ kích hoạt đồng hồ sinh học. Cần bảo đảm rằng con bạn có một bữa tối đủ chất tại một thời điểm hợp lý. Cảm giác quá đói hay quá no trước khi đi ngủ cũng là nguyên nhân khiến các con ngủ không ngon giấc. Cần đảm bảo rằng trong khẩu phần ăn của trẻ có đủ chất sắt. Thực phẩm chứa sắt bao gồm các loại thịt màu đỏ, rau xanh, đậu lăng...
- Cha mẹ cần khuyến khích trẻ vận động thể dục thể thao thường xuyên, tiếp xúc với ánh sáng tự nhiên càng nhiều càng tốt, đặc biệt là vào buổi sáng. Việc này giúp cơ thể sản xuất ra Melatonin vào đúng thời điểm trong chu kỳ giấc ngủ sinh học của trẻ. Trẻ tích cực hoạt động và tập thể dục sẽ giúp trẻ ngủ sâu và lâu hơn.
Tóm lại: Rối loạn giấc ngủ không chỉ gặp ở người lớn mà có thể gặp ngay ở trẻ nhỏ. Vì vậy, nếu cha mẹ áp dụng các biện pháp trên mà trẻ vẫn gặp rắc rối khi ngủ như: Khó ngủ, không ngủ được... thì cần cho trẻ đến cơ sở y tế để được thăm khám và tư vấn cụ thể. Nói chung, sử dụng các biện pháp trên sẽ giúp trẻ giảm dần và hết chứng rối loạn mất ngủ. Tuy nhiên, trẻ mắc các bệnh lý khác có thể cần được trợ giúp thêm để dễ ngủ.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Rối loạn giấc ngủ ở trẻ nhỏ: Chớ chủ quan...
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?