Phẫu thuật căng da mặt: Những điều cần biết
Làm đẹp là nhu cầu chính đáng của con người. Ai cũng muốn mình ngày càng đẹp hơn, đẹp nữa, đẹp mãi… Khi tuổi tác “xồng xộc” kéo đến, ghi dấu thời gian trên gương mặt, nhiều người đã nhờ đến phẫu thuật tạo hình - thẩm mỹ căng da vùng mặt và cố tìm lại làn da tươi trẻ ngày xưa (níu giữ tuổi xuân). Bạn đã trang bị đầy đủ kiến thức cần biết khi quyết định phẫu thuật vùng da mặt? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn có những thông tin cần thiết.
Những điều cần làm trước khi tiến hành phẫu thuật
Trước khi tiến hành phẫu thuật căng da mặt và cổ, bệnh nhân sẽ được phẫu thuật viên khám ít nhất 2 lần trước mổ. Buổi khám gây mê là bắt buộc nhiều ngày trước mổ. Bác sĩ gây mê sẽ giải thích kỹ với bệnh nhân về các tiến trình gây mê cũng như các tai biến và rủi ro của gây mê có thể xảy ra trong mổ. Bác sĩ cũng sẽ kê các xét nghiệm máu, chụp tim phổi và làm điện tâm đồ nếu cần.
Phẫu thuật căng da mặt có thể có các biến chứng nên cần thận trọng.
Bệnh nhân cần phải tuân thủ một số yêu cầu của bác sĩ: phải ngừng hút thuốc lá 2 tháng trước mổ để giảm nguy cơ hoại tử da; nếu đang dùng thuốc tránh thai, cần dừng 1 tháng trước phẫu thuật để giảm nguy cơ tắc mạch sau mổ; aspirin, các thuốc chống viêm cũng như các thuốc chống đông dùng đường uống cần được ngừng 15 ngày trước phẫu thuật để giảm nguy cơ chảy máu. Trước mổ, bệnh nhân cần mua một loại băng chun vùng mặt đặc biệt do bác sĩ kê; gội đầu và nhịn ăn uống từ đêm hôm trước; sẽ được chụp ảnh khuôn mặt ở các tư thế, đây là các ảnh y học để lưu hồ sơ.
Phẫu thuật
Phẫu thuật được tiến hành từ 1 tiếng rưỡi đến 3 tiếng tùy trường hợp. Thời gian nằm viện trung bình từ 1 - 3 ngày. Bệnh nhân sẽ thay băng ngày thứ 2 sau mổ, sau đó sẽ dần được thay thế bằng băng mặt chun giãn mà bệnh nhân đã mua trước mổ, cần đeo liên tục cả ngày lẫn đêm trong vòng 1 tuần sau mổ. Để tránh nguy cơ viêm tắc tĩnh mạch, bệnh nhân cần vận động sớm, ngồi dậy và đi lại vào ngày thứ 2 sau mổ nếu có thể. Tùy trường hợp mà bác sĩ có thể kê thuốc chống đông máu dạng tiêm hay dạng uống. Cắt chỉ sau mổ từ 5 - 15 ngày.
Bệnh nhân có thể gội đầu sau mổ 2 ngày, cắt tóc sau 3 tuần và nhuộm tóc sau 4 - 6 tuần. Tới khám lại sau mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm để kiểm soát các biến chứng nếu có.
Biến chứng thường gặp sau phẫu thuật căng da mặt
Tất cả các can thiệp phẫu thuật, kể cả khi được thực hiện trong những điều kiện kỹ thuật và an toàn nghiêm ngặt, đều có thể có các biến chứng. Tai biến đặc biệt của phẫu thuật căng da mặt và cổ là:
Mất tóc: Thường gặp mất tóc vùng thái dương, có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn (trường hợp mất tóc vĩnh viễn phải phẫu thuật can thiệp lại); đường chân tóc có thể bị kéo lên.
Liệt mặt: Do tổn thương nhánh thần kinh số 7, đây là tổn thương hiếm gặp (ít hơn 1% trong y văn thế giới). Liệt mặt có biểu hiện nhắm mắt không kín, giảm hoạt động của miệng và sự teo dần dần của mặt bên liệt. Liệt mặt thường tổn thương một phần, ảnh hưởng đến một nửa khuôn mặt. Nó có thể tự phục hồi sau một thời gian, nhưng cũng có thể tồn tại vĩnh viễn.
Giảm cảm giác vùng tai: thường do tổn thương nhánh thần kinh cảm giác cho tai (nhánh tai sau) có thể gặp. Nó biểu hiện đau dọc đường đi của nhánh thần kinh này, thường sẽ tự phục hồi cùng với thời gian; dái tai có thể bị kéo xuống dưới và ra trước, do sức căng lớn của sẹo vùng trước tai. Sau 6 - 12 tháng, nếu nó vẫn còn tồn tại, cần làm một phẫu thuật nhỏ để đưa dái tai trở lại vị trí bình thường.
Nếu việc cắt bỏ da chưa đủ hoặc sự không cân đối giữa 2 bên khuôn mặt, có thể được sửa chữa 6 tháng sau lần mổ đầu tiên.
Phẫu thuật căng da mặt, cổ luôn để lại sẹo. Sẹo nằm trong tóc vùng thái dương, chạy xuống trước tai sau đó chạy vòng ra sau tai và nằm trong tóc vùng sau tai. Cũng như các sẹo khác, sẹo này tồn tại vĩnh viễn và không thể xóa bỏ được. Nó có thể đỏ trong vòng nhiều tháng, do vậy, cần được bảo vệ khỏi ánh nắng trong ít nhất 6 tháng để tránh tình trạng sẹo thẫm màu. Kích thước, chiều dày và độ mềm mại của sẹo chỉ ổn định sau phẫu thuật 6 tháng tới 1 năm. Ở nam giới, sau mổ, râu cằm có thể lên cao hơn về hướng vùng tai.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Botox và một làn da không nếp nhăn
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.