Có trường hợp nhiều người thấy trẻ tỉnh giấc liên tục lại lo bị "quở quang", "át vía", thậm chí, còn sợ con thiếu canxi nên cho con uống canxi trong khi thực tế cơ thể không có nhu cầu...Hiểu được bản chất của giấc ngủ sẽ giúp các bậc phụ huynh tránh được những hiểu lầm này.
1. Vì sao trẻ ngủ không yên, hay cựa mình khi ngủ?
Giấc ngủ của chúng ta gồm nhiều chu kỳ ngủ. Mỗi chu kỳ ngủ có hai giai đoạn, bắt đầu với giai đoạn ngủ sâu và kết thúc bởi giai đoạn ngủ động. Giai đoạn ngủ sâu thì lại có 4 thì. Trong thì đầu tiên chúng ta buồn ngủ, díp mắt lại. Thì thứ 2 là ngủ nông, chúng ta có thể cựa quậy người, dễ giật mình vì tiếng động, kích thích di chuyển nhỏ.Thì thứ 3,4 là ngủ sâu và rất sâu, lúc này chúng ta chìm vào giấc ngủ thật sự. Trong giai đoạn này, não thật sự nghỉ ngơi nên chúng ta rất khó bị đánh thức. Còn trong giai đoạn ngủ động ta lại rất dễ tỉnh giấc, và là giai đoạn chúng ta có những giấc mơ. Giai đoạn này rất quan trọng trong việc phát triển não bộ của trẻ nhỏ.
Có một sự khác biệt giữa người lớn và trẻ dưới 6 tháng tuổi là trong chu kỳ ngủ, thời gian ngủ sâu của người lớn chiếm 75%, còn trẻ con thời gian ngủ động lại chiếm 50%. Chu kỳ ngủ của người lớn khoảng 90 phút, trẻ em thì 20-50 phút.
Do đó ở trẻ em, đặc biệt là trẻ trong 3 tháng đầu của cuộc đời có thể có 10-15 phút ngủ sâu, 10 -15 phút ngủ động và lặp lại như vậy trong suốt mười mấy tiếng đồng hồ. Vì vậy, các mẹ có cảm giác con mình ngủ rất ít mà lại dễ thức giấc, nhưng đây là một biểu hiện hoàn toàn bình thường ở trẻ dưới 6 tháng tuổi.
Ngủ không yên, hay cựa mình là bình thường ở trẻ sơ sinh.
Sau 3 tháng tuổi, giấc ngủ của trẻ sẽ từ từ trưởng thành hơn, thời gian ngủ sâu dài ra, thời gian ngủ động ít lại. Sau 6 tháng đến 1 tuổi, đa số các trẻ có giấc ngủ giống người lớn. Vì vậy, cha mẹ nếu muốn điều chỉnh và tập cho con mình thói quen ngủ theo ý muốn của mình chỉ nên thực hiện khi trẻ 6 tháng tuổi trở lên.
2. Trẻ ngủ bao nhiêu tiếng là đủ?
Mỗi người cũng có nhu cầu khác nhau, trẻ con cũng vậy. Có trẻ ngủ nhiều, có trẻ ngủ ít. Tùy theo nhu cầu cơ thể của mỗi trẻ, miễn sao trẻ ngủ xong dậy, ăn, chơi, phát triển vận động và trí tuệ bình thường.
Thời gian trung bình mà trẻ ngủ trong 24h bao gồm cả ngủ ngày và ngủ đêm như sau:
Trẻ sơ sinh: Thời gian ngủ từ 16-18h, mỗi giấc khoảng 3-4h
Trẻ 2- 6 tháng: Thời gian ngủ từ 14-16h
Trẻ 6 – 12 tháng: Thời gian ngủ 14h
Trẻ 1- 3 tuổi: Thời gian ngủ 10- 13h
Trẻ 3- 10 tuổi: Thời gian ngủ 10- 12h
Trẻ 10-18 tuổi: Thời gian ngủ 8-9h
3. 10 bước để có một giấc ngủ khoẻ mạnh
Các chuyên gia khuyên nên thực hiện các bước sau để trẻ có một giấc ngủ khỏe mạnh:
Thiết lập giờ đi ngủ cố định cho trẻ.
Giờ đi ngủ và thức dậy giống nhau cho cả đêm và ngày, dù phải đến trường hay không đến trường. Nếu có khác biệt không nên quá 1 giờ.
Cố gắng tạo khoảng thời gian yên tĩnh trước khi ngủ. Tránh hoạt động cần năng lượng cao, tính kích thích như chơi game hay coi TV.
Đừng để bụng đói trước khi ngủ. Tuy nhiên, bữa ăn quá nặng nề trước khi ngủ 1-2 giờ cũng có thể làm gián đoạn giấc ngủ của trẻ.
Tránh những chất kích thích 1 vài giờ trước khi ngủ.
Bảo đảm trẻ có thời gian hoạt động bên ngoài mỗi ngày khi có thể, nhất là tập thể dục đều đặn càng tốt.
Phòng ngủ tuyệt đối yên tĩnh và không quá sáng.
Giữ nhiệt độ phòng và giường ngủ thật thoải mái.
Giường chỉ để ngủ và không dùng để làm việc khác, nhất là việc trừng phạt.
Không để TV trong phòng ngủ. Tạo nên thói quen xấu cần có TV mới đi ngủ hoặc khó ra khỏi giường ngủ hơn.
Hiểu được giấc ngủ của trẻ, các bậc cha mẹ sẽ không bị hoang mang, không còn lo sợ con bị bệnh.
Hiểu được giấc ngủ của trẻ, các bậc cha mẹ cũng như người chăm sóc trẻ sẽ không bị hoang mang, không còn lo sợ con bị bệnh. Tránh những trường hợp cho con uống thuốc hay chất bổ sung khi thực tế cơ thể trẻ không có nhu cầu. Có như vậy, trẻ mới phát triển bình thường và khỏe mạnh.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Giấc ngủ tăng trưởng và chiều cao ở trẻ.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.