Mất khứu giác là một trong số những triệu chứng đầu tiên của việc nhiễm COVID-19. Và ngay từ khi đại dịch mới bắt đầu, rất nhiều người đã nói về việc họ không thể cảm nhận được các mùi hương sau khi bị nhiễm virus. Mặc dù không phải tất cả các bệnh nhân nhiễm COVID-19 đều gặp phải tình trạng này, nhưng đa số mọi người đều bị mất khứu giác và tình trạng này có thể kéo dài khá lâu sau khi đã khỏi bệnh.
Theo một nghiên cứu mới đây trên tạp chí JAMA Otolaryngology-Head & Neck Surgery thống kê rằng, có khoảng 700.000 đến 1,6 triệu người ở Mỹ đã từng nhiễm COVID-19 và bị mất khứu giác hoặc thay đổi khứu giác kéo dài trên 6 tháng. Và theo các nhà nghiên cứu, đây vẫn là con số thống kê chưa đầy đủ
Vì có một số lượng lớn người bệnh gặp phải tình trạng thay đổi khứu giác và tình trạng này có thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, nên các nhà nghiên cứu đã gọi tình trạng mất khứu giác lâu dài liên quan đến COVID là một vấn đề về sức khỏe cộng đồng.
Nghiên cứu này xem xét số lượng ca nhiễm COVID-19 mới tại Mỹ, đặc biệt là những ca mới mắc trong khoảng từ tháng 1/2020 đến tháng 7/2021. Những nhà nghiên cứu đã so sánh tỷ lệ nhiễm khuẩn này với dữ liệu từ các nghiên cứu cho thấy 52.7% số người bệnh COVID-19 đã bị mất khứu giác, nhưng 95.3% đã lấy lại được khứu giác. Sử dụng tỷ lệ nhiễm bệnh và tỷ lệ mất khứu giác từ 2 nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu đã ước tính được có bao nhiêu người bệnh bị mất khứu giác nhưng không hồi phục. Dữ liệu này đã gợi ý một vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng lo ngại về tình trạng mất khứu giác và sự cần thiết của một nghiên cứu về việc điều trị tình trạng mất khứu giác này. Trước khi đại dịch diễn ra, có khoảng 13,3 triệu người trưởng thành trên 40 tuổi đã bị rối loạn khứu giác hoặc mất khứu giác tại Mỹ. Con số này tăng lên đáng kể trong suốt đại dịch và có xu hướng sẽ còn tăng thêm.
Một số người cho rằng việc bị mất khứu giác là một hậu quả nhỏ so sánh với các hậu quả khác mà COVID-19 để lại, bao gồm các vấn đề về tim, phổi và thậm chí là tử vong. Nhưng các tác giả nghiên cứu đã quyết định việc mất khứu giác là một vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng được quan tâm vì sự ảnh hưởng của tình trạng này đến nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là ảnh hưởng đến các vấn đề về y tế và chất lượng cuộc sống.
Sự an toàn là một vấn đề đáng được quan tâm vì những người bị rối loạn khứu giác sẽ không thể nhận ra các mùi nguy hiểm và mùi thức ăn ôi thiu. Và do đó, đây được coi là một mối nguy tiềm ẩn vì người bị mất khứu giác sẽ không thể ngửi được mùi khói từ một đám cháy hoặc bị rò rỉ bình ga. Thậm chí, với những người sử dụng khứu giác để làm việc, như đầu bếp hoặc cứu hỏa, thì việc mất đi khứu giác sẽ khiến họ phải thay đổi công việc. Những người bị rối loạn khứu giác cũng sẽ bị giảm cảm giác ngon miệng và có thể bị sụt cân vì không thể ngửi được mùi đồ ăn.
Ngoài các vấn đề liên quan đến y tế, mất khứu giác cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như sẽ không thể ngửi được mùi thơm của hoa cỏ. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, không thể ngửi được có thể gây ảnh hưởng đến các vấn đề về xã hội và tinh thần, ví dụ như không thể nhận ra tình trạng vệ sinh cá nhân của mình.
Người bệnh COVID-19 có thể khôi phục được khứu giác hay không?
Mất khứu giác khá khó để điều trị, và gần như không có cách nào để khôi phục được cả. Tuy vậy, việc tập luyện cho khứu giác có thể sẽ giúp ích. Việc tập luyện sẽ bao gồm việc ngửi 4 mùi hương khác nhau, mỗi mùi ngửi khoảng 10-15s, 2 ngày một lần trong vòng 3 tháng. Trong khi ngửi, hãy luôn tưởng tượng và nghĩ xem đồ vật đó sẽ có mùi như thế nào. Ví dụ, bạn có thể ngửi một thanh quế và cố gắng tưởng tượng hoặc tìm lại trong trí nhớ xem quế có mùi như thế nào. Việc tập luyện này sẽ có ích trong việc tái tạo lại một cách tự nhiên các dây thần kinh hoặc giúp khứu giác của bạn được cải thiện. Tuy nhiên, tại sao việc tập luyện lại giúp cải thiện khứu giác và cơ chế cải thiện như thế nào thì hiện nay chưa được biết rõ.
Nếu bạn bị mất khứu giác kéo dài sau khi nhiễm COVID-19, thì bạn nên gặp bác sĩ để kiểm tra.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Hướng dẫn quan hệ tình dục an toàn hơn trong mùa COVID-19
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.