Xông hơi: Cho bé xông hơi, càng nhiều càng tốt. Với trẻ nhỏ, hãy biến phòng tắm thành phòng xông hơi, đóng kín cửa, mở tối đa vòi nước nóng. Ngồi cùng bé trong phòng này 10-15 phút.
Với trẻ lớn hơn có thể dùng máy chuyên dùng để xông mặt hoặc bát nước nóng (cẩn thận kẻo bỏng). Hơi nước giúp làm giảm tắc nghẽn ở mũi và lồng ngực, tạo thuận lợi cho việc ho và khạc đờm. Có thể nhỏ thêm một giọt dầu khuynh diệp vào bát nước xông hơi hay máy xông hơi để làm thông thoáng đường thở nhanh hơn. Thực hiện xông hơi vào mỗi buổi sáng và trước khi đi nghủ, nếu có thể thì xông hơi cả trong ngày.
Vỗ rung: Trong khi ngồi ở phòng tắm, vỗ mạnh vào trước ngực và sau lưng bé (vị trí của phổi) (mạnh hơn so với khi vỗ để bé ợ hơi) với bàn tay mở. Động tác này làm đờm long ra, giúp bé ho bật đờm tốt hơn.
Điều trị ho và cảm lạnh bằng thuốc
Ban ngày, để bé ho vài lần mỗi giờ cũng là chuyện bình thường. Điều này tốt hơn cho sức khỏe của bé, vì ho giúp đẩy đờm rãi ra ngoài thay vì để chúng đọng lại trong phổi. Cũng nên chấp nhận hiện tượng chảy mũi và nghẹt mũi vừa phải vào ban ngày nếu bé không cảm thấy quá phiền toái.
Có 4 loại thuốc ho và cảm:
1. Thuốc chống ngạt mũi: giúp giảm xuất tiết và phù nề ở mũi, làm thông thoáng đường thở, giúp bé thở dễ hơn. Thuốc hiệu quả trong trường hợp ngạt mũi. Tác dụng phụ: khiến trẻ kích thích, khó ngủ.
2. Thuốc kháng histamin: giảm xuất tiết ở mũi nếu nguyên nhân chảy nước mũi là dị ứng chứ không phải cảm. Chủ yếu giúp làm khô mũi. Tác dụng phụ: gây buồn ngủ, ảnh hưởng tới sinh hoạt ban ngày của bé.
3. Thuốc ức chế ho: ức chế phản xạ ho ở họng và phổi, khiến chất nhầy hay các yếu tố kích thích không làm khởi phát cơn ho. Hầu như không có tác dụng phụ. Thường thì nên để bé ho vào ban ngày để làm sạch phổi vào ban ngày, và cho bé dùng thuốc ức chế ho trước khi đi ngủ.
4. Thuốc long đờm: có tác dụng làm loãng đờm, giúp trẻ dễ ho bật đờm ra. Nên dùng khi trẻ bị ứ đọng nhiều ở lồng ngực, khó ho bật được đờm ra. Không có tác dụng phụ.
Các thuốc có thể được bào chế ở dạng đơn độc hay kết hợp 2, 3 hoặc 4 thành phần khác nhau. Chỉ nên dùng thuốc phù hợp với triệu chứng bệnh, chẳng hạn nếu bé ho nhiều nhưng mũi không bị ngạt thì chỉ cần dùng thuốc ức chế cơn ho.
Sử dụng thuốc an toàn
Đọc kỹ nhãn thuốc, đặc biệt là các thành phần của thuốc.
Không sử dụng cùng lúc 2 loại thuốc có cùng thành phần.
Chọn thuốc phù hợp với triệu chứng bệnh.
Không dùng thuốc lâu hơn quy định.
Không dùng thuốc thường xuyên hơn chỉ dẫn.
Không cho trẻ dùng thuốc của người lớn, dù có giảm liều.
Dùng thìa hoặc cốc đo chính xác hàm lượng thuốc, không được áng chừng.
Cảnh báo
Tại Mỹ, cả 4 loại thuốc ho và cảm lạnh KHÔNG CÒN ĐƯỢC SỬ DỤNG cho trẻ dưới 4 tuổi. Tất cả các thuốc ho và cảm dán nhãn dùng cho trẻ dưới 2 tuổi đều bị loại khỏi các hiệu thuốc. Các nhà sản xuất cũng tuyên bố không nên dùng các thuốc này cho trẻ dưới 4 tuổi.
Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) không cho phép sử dụng các thuốc này nữa vì hai lý do:
- Một số trẻ nhỏ vô tình bị dùng thuốc quá liều (cha mẹ cho trẻ dùng cùng lúc vài loại thuốc hoặc cho dùng liều quá cao).
- Có quá ít nghiên cứu ở trẻ nhỏ chứng minh được các thuốc ho và cảm an toàn và/hoặc hiệu quả.
Mặt dù thuốc có vẻ có tác dụng và hiếm khi gây rắc rối nếu dùng đúng liều, FDA vẫn tỏ ra thận trọng bằng cách ngăn cản việc dùng các loại thuốc nói trên trước khi có đầy đủ số liệu về độ an toàn và tính hiệu quả của chúng.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?