Gây mê hoặc gây tê (anaesthesia) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, là một trạng thái mất cảm giác, hoặc nhận thức tạm thời có kiểm soát được gây ra cho các mục đích y tế.
Có ba loại gây mê chính: Gây mê toàn thân ức chế hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dẫn đến bất tỉnh và mất cảm giác hoàn toàn, sử dụng thuốc tiêm hoặc hít. Dùng thuốc an thần ức chế hệ thần kinh trung ương ở mức độ nhẹ hơn, ức chế cả lo lắng và tạo ra những ký ức dài hạn mà không dẫn đến bất tỉnh. Và gây tê vùng và tại chỗ, ngăn chặn việc truyền các xung thần kinh từ một bộ phận cụ thể của cơ thể. Tùy thuộc tình hình, thuốc này có thể được sử dụng riêng (bệnh nhân vẫn hoàn toàn tỉnh táo), hoặc kết hợp với gây mê toàn thân hoặc an thần. Thuốc có thể được nhắm mục tiêu vào các dây thần kinh ngoại vi để chỉ gây mê một phần cơ thể bị cô lập, chẳng hạn như gây tê một chiếc răng để làm răng hoặc sử dụng một khối dây thần kinh để ức chế cảm giác ở toàn bộ chi.
Ngoài ra, gây tê ngoài màng cứng và tủy sống có thể được thực hiện trong chính vùng của hệ thống thần kinh trung ương, ngăn chặn tất cả cảm giác đến từ các dây thần kinh cung cấp cho khu vực của khối. Khi chuẩn bị cho một thủ thuật y tế, bác sĩ lâm sàng chọn một hoặc nhiều loại thuốc để đạt được mức độ thích hợp cho loại thủ thuật và bệnh nhân cụ thể. Các loại thuốc được sử dụng có thuốc gây mê toàn thân, thuốc gây tê cục bộ, thuốc ngủ, thuốc phân ly, thuốc an thần, thuốc bổ trợ, thuốc ngăn chặn thần kinh cơ, thuốc gây nghiện và thuốc giảm đau.
Rủi ro của các biến chứng trong hoặc sau khi gây mê liên quan đến ba yếu tố: sức khỏe bệnh nhân, sự phức tạp của quy trình và kỹ thuật gây mê. Trong những yếu tố này, yếu tố sức khỏe của người bệnh được xem là quan trọng nhất. Những rủi ro chính sau phẫu thuật có thể bao gồm tử vong, đau tim và thuyên tắc phổi, trong khi những rủi ro nhỏ có thể bao gồm buồn nôn và nôn sau phẫu thuật. Một số tình trạng như ngộ độc thuốc gây mê cục bộ, chấn thương đường thở hoặc tăng thân nhiệt ác tính, có thể được quy trực tiếp hơn cho các loại thuốc và kỹ thuật gây mê cụ thể.
Một số điều xảy ra đối với cơ thể khi gây mê đã được khoa học kiểm chứng.
Giai đoạn cảm ứng: Sau một khoảng thời gian ngắn khi thuốc gây mê tác dụng, người trong cuộc cảm thấy ngứa ran, đặc biệt là ở tứ chi, cơ thể bắt đầu “bồng bềnh”, đây là lúc thuốc bắt đầu có tác dụng.
Giai đoạn hưng phấn: Người bệnh sẽ rơi vào trạng thái mất trí nhớ, tuy rất ngắn, không nhớ bất kỳ điều gì đang xảy ra. Khi chất lạ bắt đầu can thiệp vào các chức năng cơ thể, như suy nghĩ, thở, di chuyển và cảm giác, não bắt đầu xuất hiện điều gì đó không ổn. Cơ thể cố gắng “cứu vớt tình thế” bằng cách phản ứng với thuốc mê như co giật, nhịp thở và nhịp tim thay đổi, chuyển từ trạng thái tăng vọt rồi giảm mạnh. Người bệnh có thể nôn mửa nếu giai đoạn này kéo dài quá lâu.
Giai đoạn hôn mê: Đây là giai đoạn quan trọng nhất, được gọi là “gây mê phẫu thuật”. Trên thực tế, người bệnh không hề rơi vào trạng thái vô thức mà chỉ thực sự bị hôn mê.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, trong vô thức, tâm trí vẫn hiển thị ba giai đoạn của giấc ngủ REM (Rapid Eye Movement) trên các kết quả đo điện não đồ. Trong trường hợp bị gây mê, tâm trí thực sự không hiển thị những thông số này; có nghĩa, người bệnh đang ở giai đoạn ngủ sâu hơn.
Sau khi được gây mê, thuốc làm tắt hiệu quả hệ thống thần kinh của cơ thể. Đối với gây tê cục bộ, chẳng hạn như Novocain, thuốc hoạt động như một chất giảm đau bằng cách ngăn chặn các dây thần kinh gửi tín hiệu đến não, vì vậy người bệnh không cảm thấy đau.
Gây mê toàn thân sẽ tiến thêm một bước nữa. Thuốc đi đến não, nơi nó làm chậm phản ứng của bạn với các kích thích nhất định, thậm chí làm tắt các bộ phận của não hiểu và phản ứng với cơn đau. Não hoạt không nhận hoặc phản hồi bất kỳ tín hiệu nào từ hệ thần kinh của bạn. Nhịp tim sẽ không tăng và người bệnh không không còn nhớ những gì đã trải nghiệm.
Bộ não của bạn không chỉ không thể nói chuyện với các dây thần kinh gửi tín hiệu từ tứ chi, cơ quan và cơ bắp mà còn không thể nói chuyện với chính nó. Nếu bình thường, các tín hiệu điện di chuyển nhanh chóng giúp giao tiếp tốt với nhau, nhưng khi không thành công, mọi thứ bị đảo lộn. Đầu tiên, các tín hiệu ngừng hoạt động và để phản ứng, cơ thể “chùng xuống”. Nhịp thở và nhịp tim ổn định; nhưng nghiên cứu cho thấy, não lại không còn giao tiếp với chính nó nữa. Điều này xảy ra do một số loại thuốc gây mê liên kết với thụ thể GABAA trong não, chúng làm cho các “cánh cổng” giữa các phần của tâm trí mở ra, cho phép các hạt mang điện tích âm “chảy” vào tế bào.
Một bộ phận quan trọng khác của cơ thể có thể cảm nhận được tác động của việc gây mê toàn thân, đó là cột sống. Gây mê toàn thân sẽ tác động tới dòng máu ngay sau khi hít hoặc tiêm thuốc và từ đây nó tác động đến tủy sống. Cột sống cũng là bộ phận điều khiển cảm giác và cử động ở tay chân của bạn. Vì vậy, khi thuốc gây mê làm suy giảm dòng hoạt động thần kinh qua cột sống, cơ thể bạn sẽ ngừng di chuyển ngay cả khi bệnh nhân còn tỉnh. Nói cách khác là bị tê liệt hoàn toàn. Người trong cuộc sẽ không nhận ra điều này khi đang ở giai đoạn 3 của quá trình gây mê. Khi thức dậy, một số người bị tê liệt, họ không thể cảm nhận hoặc cử động tay chân.
Trong suốt quá trình phẫu thuật, bác sĩ gây mê sẽ túc trực để theo dõi và can thiệp nếu có sai sót xảy ra. Trong giai đoạn thứ hai của quá trình gây mê, người bệnh có thể bị nôn mửa, dễ nghẹt thở, thậm chí còn bị co giật. Chất lỏng có thể xâm nhập vào phổi dẫn đến viêm phổi hoặc nhiễm trùng. Bạn có thể bị đột quỵ khi đang được gây mê toàn thân. Phổ biến nhất là khi thuốc quá nhiều đối với não, dây thần kinh; cơ thể của bạn bị ức chế đến mức tim và phổi của bạn ngừng hoạt động. Các bác sĩ gây mê sẽ giám sát chặt chẽ những sự cố này trong suốt quá trình phẫu thuật để can thiệp nhằm giảm thiểu thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Một trong những sự cố đáng ngại nhất khi phẫu thuật là gây mê thất bại. Tuy rất hiếm, nhưng vẫn có thể xảy ra trong thực tế, chuyên môn gọi đây là sự cố anesthesia awareness (Khả năng bệnh nhân bị thức tỉnh, gọi tắt là sự cố AA). Tình trạng bệnh nhân tỉnh trong lúc phẫu thuật hay thủ thuật, có thể nhớ lại những sự kiện hay môi trường xung quanh.
Khi sự cố xảy ra, bệnh nhân có thể nhớ lại các bước phẫu thuật, nhớ nỗi đau, áp lực, sợ hãi; thậm chí có thể nhìn thấy những gì đã xảy ra. Điều này chỉ xảy ra khi thuốc không được đúng hoặc không đúng liều, hoặc sai sót của bác sĩ gây mê. Trong những trường hợp này, đôi khi người trong cuộc vẫn tỉnh táo nhưng bị liệt trong khi phẫu thuật, thậm chí có thể cảm thấy toàn bộ quy trình đang được thực hiện.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Những biến chứng có thể xảy ra khi gây mê
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.