Theo tiến sĩ Võ Văn Chi, tác giả nhiều sách hay về cây thuốc Việt Nam, màng tang tên khoa học là Litsea cubeba Pers, thuộc họ long não lauraceae. Đây là loại cây nhỡ, cao chừng 5 đến 8 m, thân vỏ xanh, đến già chuyển thành màu nâu xám. Cành nhỏ và mềm.
Lá so le, phiến lá hình mác dài cỡ 10cm, rộng từ 1,5 đến 2,5cm, dày, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới xám về sau biến thành màu đen, mép nguyên, cuống lá mảnh, gân lá rõ. Hoa nhỏ khác gốc, màu vàng nhạt, mọc, thành chùm ở nách lá. Quả mọng tròn hay hình trứng, khi chín màu đen, mùi rất thơm.
Cây này mọc rải rác hoặc tập trung thành đám nhỏ ở độ cao từ 100 đến 1.500m trong rừng thứ sinh hoặc rừng sau khi làm nương rẫy. Ra hoa vào tháng 2 đến 3, có quả từ tháng 7 đến 8.
Người ta tìm thấy màng tang nhiều ở Lào Cai, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng. Loài này cũng có ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Đông y dùng lá màng tang để làm thuốc, thu hái vào mùa hè thu, sử dụng tươi hoặc phơi khô. Thuốc này có vị cay, hơi đắng, tính ấm, tác dụng khư phong tán hàn, lý khí chỉ thống. Lá dùng ngoài trị nhọt, viêm mủ da, viêm vú và trị rắn cắn.
Phân tích dược lý cho thấy nhiều bộ phận của cây như quả, hoa, lá, vỏ thân, rễ chứa tinh dầu. Đặc biệt, lá có tinh dầu có cineol, camphen, alpha-terpineol và sesquiterpon, ngoài ra còn có alkaloid và các chất khác.
Tinh dầu màng tang có tác dụng kháng khuẩn với các chủng Bacillus mycoides, B. subtilus, B. pyocyaneus, Eschirichia coli, Klebsiella sp., Mycobacterium tuberculosis, Proteus vulgaris, Salmonella typhi, Shigella dysenteriae, Shigella flexneri, Staphylococcus aureus.
Giúp chống loạn nhịp tim, chống thiếu máu cơ tim, đối kháng với loét dạ dày do axit chlohydric gây nên, bình suyễn đối với hô hấp, kháng quá mẫn do albumin gây ra. Đặc biệt là tác dụng giúp yên tĩnh, an thần.
Tiến sĩ Võ Văn Chi giới thiệu một số bài thuốc từ cây màng tang như sau:
- Viêm vú cấp tính: Lấy lá màng tang tươi dầm trong nước vo gạo để đắp.
- Phù chân lâu ngày: Lá màng tang tươi 30g, cỏ gấu tươi 9g, cành lá non cơm cháy 20g. Tất cả đem giã nhuyễn, thêm vào một lượng rượu trắng tùy thích, trộn đều đắp vào vùng bệnh.
- Phòng trị muỗi, côn trùng cắn: Dầu màng tang (chưng cất lá để thu tinh dầu) lượng tùy thích, bôi vào chỗ bị thương. Để phòng trừ muỗi cắn, có thể lấy nhiều dầu bôi vào nơi phát ra muỗi nhiều nhất. Nếu không có dầu có thể dùng lá tươi giã vắt lấy nước, bôi ngoài da.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.
Mùa thu là thời điểm cơ thể dễ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi của thời tiết và môi trường. Vậy, mùa thu nên bổ sung những loại vitamin nào?
Da đầu ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thói quen gội đầu, chấy, bệnh vẩy nến, v.v.