Polyp dạ dày đó là những khối u lồi có hình dạng khác nhau (dạng êlíp hoặc hình tròn), có cuống, đôi khi còn được gọi là khối u. Khối u này được hình thành do sự tăng sinh quá mức của niêm mạc dạ dày.
Nguyên nhân và tiên lượng của bệnh
Nguyên nhân của polyp dạ dày là do tăng sản các tế bào niêm mạc dạ dày kèm theo là phản ứng viêm mạn tính ở các tế bào lót bên trong dạ dày nhất là ở người bị viêm dạ dày mạn tính. Nguyên nhân của viêm dạ dày mạn tính rất đa dạng, trong đó phải kể đến do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) là nguyên nhân phổ biến của viêm dạ dày góp phần tăng sản và polyp u tuyến), thứ đến là do uống quá nhiều rượu bia hoặc do dùng thuốc điều trị bệnh về khớp (corticoid hoặc không steroid), thuốc hạ sốt (aspirin).
Ngoài ra còn có một số yếu tố nguy cơ làm xuất hiện polyp dạ dày, đó là tuổi tác, thường người bị polyp dạ dày gặp ở người đã có tuổi (trên 50 tuổi). Một số trường hợp do sử dụng thuốc điều trị bệnh dạ dày bởi vì dùng quá lâu thuốc ức chế bơm proton (PPI). PPI gồm có 5 thế hệ (esomeprazol, lansoprazole, omeprazole, pantoprazole và rabeprazole), nếu dùng bất kỳ thế hệ nào kéo dài (không theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh) đều có nguy cơ hình thành polyp dạ dày. Hoặc một số thuốc dùng để điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản (các thuốc ức chế thụ thể H2 như: famotidine (pepsid), cimetidine (tagamet), ranitidine (zantac) và các thuốc tăng cường làm rỗng dạ dày như: metoclopramide (reglan), domperidone (motilium), mosapride (zurma)...), và nizatidine (axít) có thể có liên quan đến khối u tuyến phình vị.
Đối với loại polyp tăng sản, thường gặp ở những người bị viêm dạ dày và polyp tuyến phình vị hình thành từ các tế bào tuyến được tìm thấy trên các lớp lót bên trong của dạ dày có thể xảy ra ở những người có chứng ung thư ruột kết được gọi là bệnh polyp có tính chất gia đình (di truyền). Hầu hết các polyp tuyến phình vị không có khả năng trở thành ung thư dạ dày, ngoại trừ xảy ra ở những người bị ung thư ruột kết di truyền. Loại polyp u tuyến hình thành từ các tế bào tuyến được tìm thấy trên các lớp lót bên trong của dạ dày do tế bào phát triển bị sai lạc bên trong ADN. Vì vậy, những thay đổi này làm cho các tế bào dễ bị tổn thương để trở thành ung thư. Đối với các loại polyp tăng sản có kích thước lớn hơn 2cm có nguy cơ trở thành ung thư cao hơn các polyp có kích thước nhỏ hơn 2cm.
Qua nội soi, bác sĩ sẽ sinh thiết polyp để tiến hành xét nghiệm tế bào
Triệu chứng
Polyp dạ dày ít khi có triệu chứng điển hình, việc phát hiện polyp dạ dày là do tình cờ. Tuy vậy, một số người bệnh polyp dạ dày có cảm giác đau thượng vị, thỉnh thoảng có buồn nôn, đặc biệt khi polyp bị viêm loét, chảy máu, người bệnh sẽ thấy chán ăn, người gầy, thiếu máu kèm theo có rối loạn tiêu hóa (đầy hơi, phân lúc lỏng lúc rắn, sôi bụng…).
Biến chứng
Polyp dạ dày có thể gây một số biến chứng. Biến chứng nguy hiểm nhất của polyp dạ dày là chảy máu là do polyp gây loét dạ dày. Nếu chảy quá nhiều máu có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người bệnh và đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng của người bệnh. Nguy hiểm nhất là từ polyp dạ dày từ đơn độc có thể phát triển thành nhiều polyp có thể gây ung thư.
Các xét nghiệm cần thiết
Nội soi dạ dày là kỹ thuật đầu tiên cần được tiến hành. Qua nội soi, bác sĩ sẽ sinh thiết polyp để tiến hành xét nghiệm tế bào (tìm tế bào lạ và xét nghiệm vi khuẩn: HP). Việc xác định có tế bào lạ hay không là cực kỳ quan trọng, nếu không thấy tế bào lạ, người bệnh có thể yên tâm điều trị theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh. Xét nghiệm vi khuẩn HP có ý nghĩa rất lớn trong việc điều trị kết hợp tiêu diệt chúng. Ngày nay, do kỹ thuật sinh học phân tử phát triển cho nên xác định vi khuẩn HP bằng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reactin) không gặp mấy khó khăn, bởi vì hầu hết các cơ sở y tế đầy đủ trang thiết bị đều có máy đế xét nghiệm PCR.
Nguyên tắc điều trị như thế nào?
Việc điều trị polyp dạ dày do bác sĩ khám bệnh và tập thể bác sĩ quyết định (qua hội chẩn). Nguyên tắc là khi polyp nhỏ (kích thước dưới 10mm), đơn độc và không phải là u tuyến, chưa có biểu hiện gì hoặc biến chứng gì có thể không cần điều trị. Tuy vậy, người bệnh cần được theo dõi theo tư vấn của bác sĩ khám bệnh cho mình. Khi polyp có kích thước lớn hơn 10mm, hoặc xuất hiện nhiều polyp hoặc polyp tuyến, đã gây ra một số triệu chứng cần được loại bỏ khối u đó. Phương pháp loại bỏ polyp dạ dày chủ yếu thông qua phương pháp nội soi.
Khi xét nghiệm PCR xác định có vi khuẩn HP, người bệnh cần được dùng kháng sinh để tiêu diệt chúng theo phác đồ điều trị.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!