Các xét nghiệm máu đánh giá tình trạng viêm trong cơ thể
Có những xét nghiệm nào để đánh giá tình trạng viêm của cơ thể?
Phát hiện các protein phản ứng này sẽ giúp biết được cơ thể bạn có bị viêm hay không. Các xét nghiệm thường dùng để phát hiện sự tăng nồng độ protein phản ứng này là: đo tốc độ máu lắng (ESR), định lượng CRP và xét nghiệm đo độ nhớt của máu (PV).
Xét nghiệm đo tốc độ máu lắng (ESR) được thực hiện như thế nào?
Mẫu máu của bạn sẽ được cho vào một ống nghiệm có chứa chất chống đông, để ngăn cản sự hình thành cục máu đông. Sau đó ống nghiệm được dựng thẳng đứng, để các hồng cầu lắng xuống đáy ống, chừa lại phần phía trên ống là cột huyết tương màu vàng, trong. Người ta sẽ đo chiều cao phần huyết tương phía trên tại thời điểm sau 1 giờ để tính ra tốc độ máu lắng, đơn vị là mm/hr.

Nếu Protein phản ứng bao quanh hồng cầu, sẽ khiến các hồng cầu dính vào nhau, làm các hồng cầu lắng càng nhanh hơn. Kết quả là tốc độ máu lắng tăng, chỉ ra rằng bạn có thể bị viêm ở đâu đó.
Bình thường tốc độ máu lắng ở nữ giới sẽ cao hơn nam giới, và tăng dần theo độ tuổi.
Giá trị bình thường của xét nghiệm tốc độ máu lắng (ESR) theo phương pháp Westergren (theo Medscaspe):
- Ở người lớn:
- Nam giới dưới 50 tuổi: ESR < 15 mm/hr
- Nam giới trên 50 tuổi: ESR < 20 mm/hr
- Nữ giới dưới 50 tuổi: ESR < 20 mm/hr
- Nữ giới trên 50 tuổi: ESR < 30 mm/hr
- Ở trẻ sơ sinh và trẻ em:
- Trẻ sơ sinh: 0-2 mm/hr
- Trẻ em: 3-13 mm/hr
Xét nghiệm định lượng CRP được thực hiện như thế nào?
CRP là viết tắt của C-reactive protein, là những protein được giải phóng ở giai đoạn viêm cấp tính. Xét nghiệm CRP cho phép định lượng nồng độ protein C – một loại protein đặc hiệu được giải phóng trong quá trình viêm. Nồng độ CRP tăng lên khi bạn bị bệnh, mà nguyên nhân có thể là do bị viêm. Bạn sẽ cần phải lấy máu để thực hiện xét nghiệm CRP.
Giá trị bình thường của xét nghiệm định lượng CRP (theo Medscape): là 0-10 mg/L.
Xét nghiệm đo độ nhớt của máu được thực hiện như thế nào?
So với xét nghiệm đo tốc độ máu lắng thì xét nghiệm đo độ nhớt của máu khó thực hiện hơn. Tuy nhiên, đây vẫn là một xét nghiệm quan trọng giúp đánh giá tình trạng viêm. Sự tăng độ nhớt của máu là một trong các dấu hiệu cho thấy cơ thể có thể bị viêm ở đâu đó.
Những bệnh lý nào làm thay đổi nồng độ CRP, tốc độ máu lắng, độ nhớt của máu?
Khi cơ thể bị viêm thì tốc độ máu lắng (ESR), độ nhớt của máu (PV) và nồng độ CRP có thể đều tăng. Trong đó, ESR và PV thay đổi chậm hơn CRP trong quá trình viêm, ngay từ khi bắt đầu và khi kết thúc quá trình viêm.
Xét nghiệm ESR, CRP, PV có thể tăng trong các bệnh lý sau:
Xét nghiệm tốc độ máu lắng có thể giảm trong các bệnh lý sau:
Khi nào thì cần làm các xét nghiệm này?
Hỗ trợ chẩn đoán bệnh
Xét nghiệm ESR, CRP, PV không đặc hiệu cho một bệnh lý cụ thể nào. Tức là, khi nồng độ của chúng tăng lên, có nghĩa là “có chuyện gì đó đang xảy ra” và cần làm thêm một số các xét nghiệm khác để biết chính xác nguyên nhân đó là gì. Ví dụ, nếu bạn không được khỏe và chưa rõ nguyên nhân gây ra là gì, khi làm xét nghiệm ESR, CRP, PV thấy kết quả đều tăng, chỉ ra có thể bạn đang bị viêm. Điều đó gợi ý cho bác sĩ tiến hành thêm một số xét nghiệm khác để tìm ra nguyên nhân.
Thường thì không thể chẩn đoán chắc chắn tình trạng bệnh từ kết quả của xét nghiệm ESR, CRP, PV. Tuy nhiên, trước khi tiến hành các xét nghiệm chuyên biệt, bác sĩ sẽ cho bạn thực hiện xét nghiệm ESR, CRP, PV và lặp lại sau một thời gian điều trị. Nếu kết quả các xét nghiệm ban đầu tăng (do nguyên nhân nhiễm trùng) và sau đó trở về bình thường khi tình trạng bệnh đã được cải thiện, thì bạn không cần thực hiện thêm các xét nghiệm nào khác nữa.
Theo dõi tiến triển bệnh
Ví dụ, nếu bạn bị đau cơ dạng thấp, tình trạng viêm và tiến triển của bệnh có thể được đánh giá một phần thông qua kết quả các xét nghiệm này, theo nguyên tắc: nồng độ cao, bệnh tiến triển nặng. Và cũng có thể dùng để theo dõi đáp ứng điều trị, đáp ứng điều trị tốt, nồng độ ESR, CRP, PV có thể giảm.
Cả 3 xét nghiệm đều rất hữu ích. Tuy nhiên, nồng độ CRP thay đổi nhanh hơn. Điều này là cực kỳ quan trọng trong điều trị một số nhiễm trùng nặng hoặc giai đoạn viêm cấp tính. Ví dụ, nồng độ CRP giảm sau điều trị vài ngày, chứng tỏ việc điều trị là đúng hướng, có hiệu quả. Nếu nồng độ CRP không giảm, thì có thể việc điều trị là không hiệu quả, gợi ý bác sĩ chuyển đổi hướng điều trị khác.
Tham khảo thêm thông tin trong bài viết: Những phản ứng viêm bạn thường gặp mỗi ngày
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!