Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Bướu giáp nhân lành tính: Nguyên nhân, biểu hiện và điều trị

Bướu giáp nhân là bệnh lý rất thường gặp, đa phần các trường hợp nhân giáp thường không có triệu chứng lâm sàng, chúng được phát hiện tình cờ khi siêu âm kiểm tra vùng cổ vì một bệnh lý khác. Bệnh hay gặp ở phụ nữ và người cao tuổi.

1. Tổng quan về bướu giáp nhân lành tính

Bướu giáp nhân được phân ra các loại mô học khác nhau như bướu giáp nhân không độc hay còn gọi bướu giáp đơn thuần (đơn nhân hoặc đa nhân) cũng có nơi gọi là phình giáp (đơn hạt hoặc đa hạt), bướu giáp nhân độc, u tuyến giáp, ung thư tuyến giáp, viêm giáp… 

Trong đó, bướu giáp nhân lành tính chiếm 23,02%, tỉ lệ ung thư trong số các nhân giáp có thể tới 5 -15%.

Trên thế giới, theo nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng 4 - 7% dân số có nhân giáp sờ thấy được trên lâm sàng. Nếu khảo sát bằng siêu âm tuyến giáp thì có 19 - 35% dân số có nhân giáp.

Tại Việt Nam tỷ lệ bệnh thay đổi theo từng địa phương, nhưng đa phần các trường hợp nhân giáp thường không có triệu chứng lâm sàng, chúng được phát hiện tình cờ khi siêu âm kiểm tra vùng cổ vì một bệnh lý khác. Bệnh nhân bị bướu giáp đến khám thường với biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất là xuất hiện bướu vùng cổ.

Theo số liệu của UICC - Tổ chức kiểm soát ung thư thế giới, ung thư tuyến giáp chiếm tỉ lệ 1% trong tất cả các loại ung thư.

Bướu giáp nhân là bệnh lý thường gặp ở phụ nữ.

2. Một số bướu giáp nhân lành tính thường gặp

2.1. Bướu giáp đơn thuần

Đây là loại hay gặp nhất, đặc biệt phụ nữ, bệnh nhân không có rối loạn chức năng tuyến giáp.

- Bướu giáp đơn thuần gồm ba thể: Thể lan tỏa, thể đơn nhân và thể đa nhân. 

Thể đa nhân thường gặp ở người cao tuổi hơn thể lan tỏa, triệu chứng thường không rõ, đa số không cần điều trị, chỉ cần sinh thiết xét nghiệm tế bào học để loại trừ ung thư. 

Thể đơn nhân thường lành tính, tuy nhiên có khoảng 5% là ung thư biểu mô, cần sinh thiết bằng kim nhỏ để làm rõ chẩn đoán, với thể đơn nhân lành tính cần tái khám định kỳ, bệnh thường không đáp ứng giảm thể tích với điều trị Thyroxine.

- Nguyên nhân bướu giáp đơn thuần:

  • Có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân do thiếu iod trong thực phẩm, bệnh có tỉ lệ cao ở những vùng thiếu iod như vùng núi nên còn gọi bướu giáp dịch tễ. Tuy nhiên, có nhiều vùng trên thế giới không thiếu iod, ngay cả vùng thừa iod vẫn có thể bị bướu giáp dịch tễ.
    Ngoài ra, không phải tất cả người sống ở vùng thiếu iod đều bị bướu giáp đơn thuần. Điều này cho thấy ngoài yếu tố môi trường còn có yếu tố di truyền trong bệnh sinh bướu giáp, các yếu tố này có thể tác dụng tương hỗ.

  • Bướu giáp đơn thuần do dùng quá nhiều các thực phẩm như củ cải, cải bắp, xu hào, đậu nành có chứa Cyanantes tác dụng làm phì đại tuyến giáp.
    Ngoài ra, do bệnh nhân dùng những thuốc có chất Thiocyanat, Acid para-amino - Salicylic (PAS), muối Lithium, Cobalt, thuốc kháng giáp tổng hợp có thể gây bướu giáp đơn thuần.

  • Bướu giáp đơn thuần do rối loạn thần kinh - nội tiết tố ở trẻ gái dậy thì, phụ nữ mãn kinh hoặc trong thai kỳ.

Bướu giáp nhân được phân ra các loại mô học khác nhau như bướu giáp nhân không độc hay còn gọi bướu giáp đơn thuần.

- Biểu hiện của bướu giáp đơn thuần: 

Bệnh thường kín đáo, không có triệu chứng. Bướu giáp có thể do người bệnh hoặc người xung quanh phát hiện, hoặc được phát hiện khi khám sức khỏe tổng quát. 

Khám tuyến giáp thấy tuyến giáp lớn ở giữa cổ, ranh giới rõ, không dính vào da, tuyến lớn lan tỏa hoặc dạng nhân, di động theo nhịp nuốt, không đau. 

Bướu lớn có thể gây các dấu hiệu chèn ép cơ quan và tổ chức xung quanh như: Chèn ép khí quản gây khó thở, chèn ép dây thần kinh hồi thanh quản gây nói khó, nói khàn, nói hai giọng, chèn ép tĩnh mạch chủ trên gây phù kiểu áo khoác: Phù ở mặt, cổ, lồng ngực, hai tay...

- Điều trị bướu giáp đơn thuần: Trường hợp bướu giáp nhỏ, không có triệu chứng lâm sàng: Chỉ cần theo dõi định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu âm tuyến giáp để đánh giá độ lớn. 

Sự phát triển tuyến giáp rất khác nhau ở mỗi người bệnh, một số trường hợp bướu giáp ổn định trong nhiều năm.

+ Điều trị ức chế giáp thông qua ức chế TSH tuyến yên với Thyroxin làm giảm thể tích tuyến giáp khoảng 60% các trường hợp sau 9 tháng điều trị. Tuy nhiên, cần điều trị lâu dài. Nói chung bướu giáp đơn nhân thường đáp ứng kém hơn thể bướu giáp lan tỏa. Kết quả điều trị với Thyroxine thường tốt hơn ở người bệnh trẻ, bướu giáp không quá lớn và bệnh mới phát hiện.

+ Điều trị với iod phóng xạ (I131) nhằm làm giảm thể tích bướu, có thể áp dụng cho bướu giáp đơn nhân quá lớn ở người lớn tuổi có chống chỉ định phẫu thuật hoặc những trường hợp bị tái phát sau phẫu thuật. Không điều trị I131 với người trẻ, cũng như trường hợp bướu giáp lớn sau xương ức, có thể làm sưng cấp tính tuyến giáp gây đè ép khí quản nặng hơn. Nói chung I131 tỏ ra hiệu quả và an toàn đối với bướu giáp đơn thuần thể đa nhân, tuy nhiên tỷ lệ suy giáp khá cao: 22% - 40% trong 5 năm.

+ Đốt nhân giáp bằng sóng cao tần hoặc bằng vi sóng.

+ Phẫu thuật được chỉ định khi điều trị nội khoa thất bại hoặc có biến chứng như cường giáp; Bướu giáp lớn có dấu hiệu chèn ép các cơ quan và tổ chức vùng cổ; Nhân giáp chuyển ác tính; Do yêu cầu thẩm mỹ (thường là nữ trẻ tuổi). Trong phẫu thuật, hiện nay người ta có khuynh hướng mổ mở cho những bướu lớn, dính; mổ nội soi cho những bướu nhỏ dưới 4cm, di động.

2.2. Nhân giáp độc của tuyến giáp hay còn gọi bệnh Plummer

Đây là tình trạng cường chức năng tuyến giáp với sự gia tăng sản xuất hormon giáp do nhân tuyến tự động. Plummer (1913) là người đầu tiên phân biệt bệnh Basedow và cường giáp kèm theo nhân giáp. 

Danh từ nhân giáp độc, còn gọi là bướu giáp nhân độc được hiểu là có tình trạng cường giáp, đó là nhân tuyến giáp bản chất lành tính nhưng thoát khỏi sự kiểm soát của tuyến yên và hoạt động tự trị gây nhiễm độc giáp.

- Nhân giáp độc là một trong những nguyên nhân của cường giáp. Tuổi phát bệnh thường lớn, khoảng 40 - 60 tuổi. Tuy nhiên, cũng có thể gặp ở độ tuổi 20. Phụ nữ thường chiếm ưu thế hơn nam giới, tỉ lệ nữ/ nam khoảng 4/1.

- Nguyên nhân bệnh Plummer và cơ chế chưa rõ. Có thể liên quan đến đột biến gen của thụ thể TSH làm tăng hoạt động nang tuyến mà không liên quan với TSH.

- Bệnh Plummer có biểu hiện là một nhiễm độc giáp đơn thuần kèm nhân giáp, thường là một nhân giáp đơn độc, đôi khi bị che khuất sau xương ức. Nhân giáp thường định vị ở một thùy, thùy còn lại thể tích nhỏ hơn bình thường (do bị ức chế phát triển).

- Điều trị bệnh Plummer:

+ Chủ yếu là điều trị nội khoa có thể sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp và ức chế beta để điều trị triệu chứng tạm thời, hoặc chuẩn bị tiền phẫu với thuốc kháng giáp như Propylthiouracil 100 mg/ 6 giờ/ngày hoặc Carbimazol 40 mg/ ngày. U tuyến giáp độc có thể được điều trị bằng iod phóng xạ (I131).

+ Điều trị phẫu thuật bao gồm cắt bỏ thùy giáp hoặc loại bỏ nhân giáp tùy theo kích thước của tổn thương sau khi chuẩn bị tốt với thuốc kháng giáp.

+ Đốt nhân giáp bằng sóng cao tần hoặc bằng vi sóng.

Bướu giáp nhân lành tính là một trong những bệnh lý khá thường gặp.

2.3. Bướu giáp đa nhân độc

- Đây là bướu giáp không đồng nhất bên cạnh tổ chức lành mạnh thường phối hợp với nhiều cấu trúc tự động gây tăng hoạt giáp như u tuyến độc. Sau. Basedow, bướu giáp đa nhân độc là một trong những nguyên nhân thường gặp trong cường giáp. Đây là thể cường giáp đứng hàng đầu xảy ra ở người bệnh lớn tuổi. Bệnh thường xảy ra ở phụ nữ lớn tuổi, phụ nữ chiếm 90 - 95% trường hợp, tuổi thường gặp 60 - 70 tuổi, tiền sử có bướu giáp đa nhân và có tính chất gia đình.

- Bệnh bướu giáp đa nhân độc có biểu hiện lâm sàng rõ ràng nên bản thân người bệnh đã nhận biết mình bị bướu giáp trước đó nhiều năm (trung bình mười năm) nhưng không có triệu chứng chèn ép khí quản hoặc thực quản, không có cảm giác đau đớn. Tuyến giáp thường rất lớn, sờ nắn có thể có nhiều nhân với cấu trúc không đồng chất, không có hạch kèm, có thể có hiện tượng calci hóa bên trong nhân giáp. Một số trường hợp bướu giáp lớn hoặc phát triển trong lồng ngực có thể gây chèn ép

- Điều trị bướu giáp đa nhân độc:

+ Phẫu thuật, đây là biện pháp điều trị cơ bản vừa chữa lành bệnh, đồng thời lấy đi các nhân lạnh chưa loại trừ ung thư hóa. Sau khi chuẩn bị tốt với kháng giáp, phần lớn phẫu thuật viên lấy tổ chức khá rộng tránh tái phát, từ bóc nhân đến cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp. Tất nhiên, cũng có một số tai biến nhưng tỷ lệ khá thấp (suy cận giáp, liệt dây thần kinh hồi thanh quản khoảng 1%). Nếu cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp đòi hỏi điều trị thay thế hormon tuyến giáp vĩnh viễn.

+ Iod phóng xạ: Thường dùng I131. I131 tập trung vào các vùng nhân nóng để hủy diệt tổ chức tăng hoạt. So với phẫu thuật, điều trị bằng I131 có kết quả chậm, trở về bình giáp sau 4 - 6 tháng, đôi khi cần điều trị bổ túc. Ngoài ra, nguy cơ ung thư, suy giáp cần phải thường xuyên theo dõi.

Tóm lại: Bướu giáp nhân lành tính là một trong những bệnh lý khá thường gặp. Mặc dù phần lớn nhân tuyến giáp là lành tính, một tỷ lệ nhỏ các nhân giáp có chứa tế bào ung thư tuyến giáp. Hầu hết nhân tuyến giáp cần một vài đánh giá để chẩn đoán và điều trị sớm ung thư tuyến giáp.

Tham khảo thêm thông tin bài viết: Phụ nữ và đàn ông: Ai có nguy cơ bị bướu cổ cao hơn?

BS. Đinh Hữu Hòa - Theo suckhoedoisong.vn
Bình luận
Tin mới
  • 04/12/2025

    Loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh

    Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!

  • 04/12/2025

    Ai không nên ăn thịt lợn nọng?

    Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.

  • 04/12/2025

    Sự thật về tóc bạc

    Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.

  • 03/12/2025

    Có nên dùng ‘đường ăn kiêng’ để giảm cân?

    Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?

  • 03/12/2025

    Viêm xoang trong mùa đông

    Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.

  • 02/12/2025

    Eswatini – Quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai mũi tiêm phòng HIV hai lần mỗi năm

    Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.

  • 02/12/2025

    4 lợi ích nổi bật nhất của rau càng cua với sức khỏe

    Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

  • 02/12/2025

    Các dấu hiệu nhận biết đột quỵ vào mùa đông

    Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.

Xem thêm