Bướu giáp nhân được phân ra các loại mô học khác nhau như bướu giáp nhân không độc hay còn gọi bướu giáp đơn thuần (đơn nhân hoặc đa nhân) cũng có nơi gọi là phình giáp (đơn hạt hoặc đa hạt), bướu giáp nhân độc, u tuyến giáp, ung thư tuyến giáp, viêm giáp…
Trong đó, bướu giáp nhân lành tính chiếm 23,02%, tỉ lệ ung thư trong số các nhân giáp có thể tới 5 -15%.
Trên thế giới, theo nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng 4 - 7% dân số có nhân giáp sờ thấy được trên lâm sàng. Nếu khảo sát bằng siêu âm tuyến giáp thì có 19 - 35% dân số có nhân giáp.
Tại Việt Nam tỷ lệ bệnh thay đổi theo từng địa phương, nhưng đa phần các trường hợp nhân giáp thường không có triệu chứng lâm sàng, chúng được phát hiện tình cờ khi siêu âm kiểm tra vùng cổ vì một bệnh lý khác. Bệnh nhân bị bướu giáp đến khám thường với biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất là xuất hiện bướu vùng cổ.
Theo số liệu của UICC - Tổ chức kiểm soát ung thư thế giới, ung thư tuyến giáp chiếm tỉ lệ 1% trong tất cả các loại ung thư.
Đây là loại hay gặp nhất, đặc biệt phụ nữ, bệnh nhân không có rối loạn chức năng tuyến giáp.
- Bướu giáp đơn thuần gồm ba thể: Thể lan tỏa, thể đơn nhân và thể đa nhân.
Thể đa nhân thường gặp ở người cao tuổi hơn thể lan tỏa, triệu chứng thường không rõ, đa số không cần điều trị, chỉ cần sinh thiết xét nghiệm tế bào học để loại trừ ung thư.
Thể đơn nhân thường lành tính, tuy nhiên có khoảng 5% là ung thư biểu mô, cần sinh thiết bằng kim nhỏ để làm rõ chẩn đoán, với thể đơn nhân lành tính cần tái khám định kỳ, bệnh thường không đáp ứng giảm thể tích với điều trị Thyroxine.
- Nguyên nhân bướu giáp đơn thuần:
Có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân do thiếu iod trong thực phẩm, bệnh có tỉ lệ cao ở những vùng thiếu iod như vùng núi nên còn gọi bướu giáp dịch tễ. Tuy nhiên, có nhiều vùng trên thế giới không thiếu iod, ngay cả vùng thừa iod vẫn có thể bị bướu giáp dịch tễ.
Ngoài ra, không phải tất cả người sống ở vùng thiếu iod đều bị bướu giáp đơn thuần. Điều này cho thấy ngoài yếu tố môi trường còn có yếu tố di truyền trong bệnh sinh bướu giáp, các yếu tố này có thể tác dụng tương hỗ.
Bướu giáp đơn thuần do dùng quá nhiều các thực phẩm như củ cải, cải bắp, xu hào, đậu nành có chứa Cyanantes tác dụng làm phì đại tuyến giáp.
Ngoài ra, do bệnh nhân dùng những thuốc có chất Thiocyanat, Acid para-amino - Salicylic (PAS), muối Lithium, Cobalt, thuốc kháng giáp tổng hợp có thể gây bướu giáp đơn thuần.
Bướu giáp đơn thuần do rối loạn thần kinh - nội tiết tố ở trẻ gái dậy thì, phụ nữ mãn kinh hoặc trong thai kỳ.
- Biểu hiện của bướu giáp đơn thuần:
Bệnh thường kín đáo, không có triệu chứng. Bướu giáp có thể do người bệnh hoặc người xung quanh phát hiện, hoặc được phát hiện khi khám sức khỏe tổng quát.
Khám tuyến giáp thấy tuyến giáp lớn ở giữa cổ, ranh giới rõ, không dính vào da, tuyến lớn lan tỏa hoặc dạng nhân, di động theo nhịp nuốt, không đau.
Bướu lớn có thể gây các dấu hiệu chèn ép cơ quan và tổ chức xung quanh như: Chèn ép khí quản gây khó thở, chèn ép dây thần kinh hồi thanh quản gây nói khó, nói khàn, nói hai giọng, chèn ép tĩnh mạch chủ trên gây phù kiểu áo khoác: Phù ở mặt, cổ, lồng ngực, hai tay...
- Điều trị bướu giáp đơn thuần: Trường hợp bướu giáp nhỏ, không có triệu chứng lâm sàng: Chỉ cần theo dõi định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu âm tuyến giáp để đánh giá độ lớn.
Sự phát triển tuyến giáp rất khác nhau ở mỗi người bệnh, một số trường hợp bướu giáp ổn định trong nhiều năm.
+ Điều trị ức chế giáp thông qua ức chế TSH tuyến yên với Thyroxin làm giảm thể tích tuyến giáp khoảng 60% các trường hợp sau 9 tháng điều trị. Tuy nhiên, cần điều trị lâu dài. Nói chung bướu giáp đơn nhân thường đáp ứng kém hơn thể bướu giáp lan tỏa. Kết quả điều trị với Thyroxine thường tốt hơn ở người bệnh trẻ, bướu giáp không quá lớn và bệnh mới phát hiện.
+ Điều trị với iod phóng xạ (I131) nhằm làm giảm thể tích bướu, có thể áp dụng cho bướu giáp đơn nhân quá lớn ở người lớn tuổi có chống chỉ định phẫu thuật hoặc những trường hợp bị tái phát sau phẫu thuật. Không điều trị I131 với người trẻ, cũng như trường hợp bướu giáp lớn sau xương ức, có thể làm sưng cấp tính tuyến giáp gây đè ép khí quản nặng hơn. Nói chung I131 tỏ ra hiệu quả và an toàn đối với bướu giáp đơn thuần thể đa nhân, tuy nhiên tỷ lệ suy giáp khá cao: 22% - 40% trong 5 năm.
+ Đốt nhân giáp bằng sóng cao tần hoặc bằng vi sóng.
+ Phẫu thuật được chỉ định khi điều trị nội khoa thất bại hoặc có biến chứng như cường giáp; Bướu giáp lớn có dấu hiệu chèn ép các cơ quan và tổ chức vùng cổ; Nhân giáp chuyển ác tính; Do yêu cầu thẩm mỹ (thường là nữ trẻ tuổi). Trong phẫu thuật, hiện nay người ta có khuynh hướng mổ mở cho những bướu lớn, dính; mổ nội soi cho những bướu nhỏ dưới 4cm, di động.
- Đây là tình trạng cường chức năng tuyến giáp với sự gia tăng sản xuất hormon giáp do nhân tuyến tự động. Plummer (1913) là người đầu tiên phân biệt bệnh Basedow và cường giáp kèm theo nhân giáp.
Danh từ nhân giáp độc, còn gọi là bướu giáp nhân độc được hiểu là có tình trạng cường giáp, đó là nhân tuyến giáp bản chất lành tính nhưng thoát khỏi sự kiểm soát của tuyến yên và hoạt động tự trị gây nhiễm độc giáp.
- Nhân giáp độc là một trong những nguyên nhân của cường giáp. Tuổi phát bệnh thường lớn, khoảng 40 - 60 tuổi. Tuy nhiên, cũng có thể gặp ở độ tuổi 20. Phụ nữ thường chiếm ưu thế hơn nam giới, tỉ lệ nữ/ nam khoảng 4/1.
- Nguyên nhân bệnh Plummer và cơ chế chưa rõ. Có thể liên quan đến đột biến gen của thụ thể TSH làm tăng hoạt động nang tuyến mà không liên quan với TSH.
- Bệnh Plummer có biểu hiện là một nhiễm độc giáp đơn thuần kèm nhân giáp, thường là một nhân giáp đơn độc, đôi khi bị che khuất sau xương ức. Nhân giáp thường định vị ở một thùy, thùy còn lại thể tích nhỏ hơn bình thường (do bị ức chế phát triển).
- Điều trị bệnh Plummer:
+ Chủ yếu là điều trị nội khoa có thể sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp và ức chế beta để điều trị triệu chứng tạm thời, hoặc chuẩn bị tiền phẫu với thuốc kháng giáp như Propylthiouracil 100 mg/ 6 giờ/ngày hoặc Carbimazol 40 mg/ ngày. U tuyến giáp độc có thể được điều trị bằng iod phóng xạ (I131).
+ Điều trị phẫu thuật bao gồm cắt bỏ thùy giáp hoặc loại bỏ nhân giáp tùy theo kích thước của tổn thương sau khi chuẩn bị tốt với thuốc kháng giáp.
+ Đốt nhân giáp bằng sóng cao tần hoặc bằng vi sóng.
- Đây là bướu giáp không đồng nhất bên cạnh tổ chức lành mạnh thường phối hợp với nhiều cấu trúc tự động gây tăng hoạt giáp như u tuyến độc. Sau. Basedow, bướu giáp đa nhân độc là một trong những nguyên nhân thường gặp trong cường giáp. Đây là thể cường giáp đứng hàng đầu xảy ra ở người bệnh lớn tuổi. Bệnh thường xảy ra ở phụ nữ lớn tuổi, phụ nữ chiếm 90 - 95% trường hợp, tuổi thường gặp 60 - 70 tuổi, tiền sử có bướu giáp đa nhân và có tính chất gia đình.
- Bệnh bướu giáp đa nhân độc có biểu hiện lâm sàng rõ ràng nên bản thân người bệnh đã nhận biết mình bị bướu giáp trước đó nhiều năm (trung bình mười năm) nhưng không có triệu chứng chèn ép khí quản hoặc thực quản, không có cảm giác đau đớn. Tuyến giáp thường rất lớn, sờ nắn có thể có nhiều nhân với cấu trúc không đồng chất, không có hạch kèm, có thể có hiện tượng calci hóa bên trong nhân giáp. Một số trường hợp bướu giáp lớn hoặc phát triển trong lồng ngực có thể gây chèn ép
- Điều trị bướu giáp đa nhân độc:
+ Phẫu thuật, đây là biện pháp điều trị cơ bản vừa chữa lành bệnh, đồng thời lấy đi các nhân lạnh chưa loại trừ ung thư hóa. Sau khi chuẩn bị tốt với kháng giáp, phần lớn phẫu thuật viên lấy tổ chức khá rộng tránh tái phát, từ bóc nhân đến cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp. Tất nhiên, cũng có một số tai biến nhưng tỷ lệ khá thấp (suy cận giáp, liệt dây thần kinh hồi thanh quản khoảng 1%). Nếu cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp đòi hỏi điều trị thay thế hormon tuyến giáp vĩnh viễn.
+ Iod phóng xạ: Thường dùng I131. I131 tập trung vào các vùng nhân nóng để hủy diệt tổ chức tăng hoạt. So với phẫu thuật, điều trị bằng I131 có kết quả chậm, trở về bình giáp sau 4 - 6 tháng, đôi khi cần điều trị bổ túc. Ngoài ra, nguy cơ ung thư, suy giáp cần phải thường xuyên theo dõi.
Tóm lại: Bướu giáp nhân lành tính là một trong những bệnh lý khá thường gặp. Mặc dù phần lớn nhân tuyến giáp là lành tính, một tỷ lệ nhỏ các nhân giáp có chứa tế bào ung thư tuyến giáp. Hầu hết nhân tuyến giáp cần một vài đánh giá để chẩn đoán và điều trị sớm ung thư tuyến giáp. |
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Phụ nữ và đàn ông: Ai có nguy cơ bị bướu cổ cao hơn?
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.