Bệnh trầm cảm - nó đáng sợ như thế nào?
Vì sao chúng ta bị trầm cảm?
Có rất nhiều yếu tố có thể khiến một người bị trầm cảm: một biến cố xảy ra trong cuộc đời, do di truyền, hay thậm chí có thể đơn giản là vì... thời tiết. Tuy nhiên, lý do phổ biến nhất là áp lực, hay stress.
Trong cuộc sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều tình huống gây áp lực. Thi cử, học hành, công việc, tình yêu, đám cưới hoặc sinh con... đó đều là những áp lực dồn nén mà chúng ta chẳng có cách nào khác ngoài việc hứng chịu.

Những áp lực như vậy trong ngắn hạn có thể đem lại một số lợi ích nhất định, ví dụ như lượng adrenaline tiết ra làm tăng sự tập trung. Tuy nhiên, hormone stress cortisol lại gây cản trở tế bào nội mô trong mạch máu, dễ gây tắc mạch máu và làm tích tụ cholesterol có hại. Về lâu dài, stress sẽ làm tăng nguy cơ bị đau tim và đột quỵ.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tác hại lớn nhất của stress. Khi phải hứng chịu đủ thứ áp lực mà không có cách nào giảm tải, bạn hoàn toàn có thể mắc trầm cảm, và đó mới là vấn đề.

Trầm cảm - nó đáng sợ hơn ta tưởng
Trầm cảm là một triệu chứng tâm lý. Khi bị trầm cảm, con người ta sẽ cảm thấy cuộc đời thật u ám, buồn bã và tuyệt vọng với cuộc đời này. Nhưng sự đáng sợ ở đây là bạn hoàn toàn có thể chết vì một căn bệnh tưởng như chỉ diễn ra bên trong đầu của mình.
Căn bệnh này, mà có tác động gián tiếp khiến con người có thể chết bất kỳ lúc nào. Trong đó, nổi bật nhất chính là nguy cơ tự sát.
Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Mỹ), càng ngày càng có nhiều ca tự sát liên quan đến trầm cảm. Ở Nhật vào năm 2014, ước tính có 70 người tự sát mỗi ngày, trong đó gần hơn 1/3 là vì trầm cảm. Người ta thường chỉ tự sát khi cuộc đời không còn gì có thể cứu vãn, và trầm cảm có thể làm được điều đó. Nó khiến cuộc đời của một người trở nên thật vô vọng, để rồi tự kết thúc cuộc đời đau khổ của mình.
Bên cạnh đó, để xoa dịu tâm trạng, người bệnh có xu hướng tự tìm đến những "phương thuốc" giúp họ thoải mái hơn, và đó thường là chất kích thích hoặc rượu, với mức độ sử dụng có thể nói là... càng nhiều càng ít.
Tất nhiên, một lối sống không lành mạnh như vậy sẽ dẫn đến rất nhiều bệnh, và hệ quả là người bệnh sẽ sớm được "chào" Thần Chết nếu không được quan tâm chăm sóc.

Trầm cảm có thể có thể gây nguy hiểm cho xã hội hay không?
Về cơ bản thì cực kỳ hãn hữu!
Đã từng có rất nhiều nghiên cứu cố gắng chứng minh trầm cảm có liên hệ với khả năng gia tăng tình trạng bạo lực. Thậm chí, một nghiên cứu vào năm 2009 trên những tội phạm "giết người - tự sát" (tội phạm giết người rồi tự kết liễu bản thân) còn cho thấy có một tỉ lệ không nhỏ mắc trầm cảm.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này đều vấp phải sự phản đối hết sức dữ dội từ chính giới chuyên gia về tính chính xác và áp dụng trong thực tiễn.
Đầu tiên, tỉ lệ tội phạm giết người - tự sát luôn ở mức cực kỳ thấp trong mọi xã hội, chỉ khoảng 0,2 - 0,3/100.000 người. Hơn nữa, các hành vi bạo lực không đến từ bản thân chứng trầm cảm, mà còn do nhiều bệnh tâm lý khác trên cùng một bệnh nhân. Đồng thời, các yếu tố môi trường xung quanh cũng gây tác động rất lớn.

Cần hiểu rằng, trầm cảm là một căn bệnh phổ biến, và người bị trầm cảm có xu hướng tự gây tổn thương cho bản thân, hơn là bộc lộ thiên hướng bạo lực ra bên ngoài.
Có điều, không thể phủ nhận một số chứng trầm cảm khi lên đến cực độ có thể gây nguy hại cho những người xung quanh. Điều này đặc biệt ứng với những trường hợp trầm cảm nặng sau sinh (Postpartum Depression), vì họ có thể gây nguy hiểm cho chính những đứa con của mình.

Những trường hợp như vậy cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt, buộc phải nhờ đến bác sĩ tâm lý kể cả khi bệnh nhân không muốn điều đó.
Hãy nhớ, người bị trầm cảm cần được giúp đỡ!
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.