Một tương lai đen tối ám đầy mụn nhọt và ho lao, những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục sẽ giết chết bạn và những bệnh tật hiếm thấy xuất hiện sẽ hoành hành trở lại.
Một báo cáo cho thấy rằng các bệnh nhiễm trùng đang dần kháng được mọi loại thuốc kháng sinh mà chúng ta vẫn sử dụng. Nghiên cứu còn cho thấy rằng 10 triệu người sẽ chết mỗi năm, từ giờ cho tới 2050, nếu như việc kháng kháng sinh này tiếp diễn. Vậy là tốc độ tử vong sẽ là 1 người chết trong mỗi 3 giây.
Chúng ta càng sử dụng nhiều thuốc kháng sinh, vi khuẩn sẽ càng nhanh tiến hóa để thích nghi và chống lại những loại kháng sinh này. Và cứ như vậy, những convi khuẩn tiến hóa này sẽ tiếp tục lan truyền bệnh, bên cạnh đó chúng sẽ "dạy lại" những con vi khuẩn khác phương pháp phòng vệ để chống lại các loại kháng sinh.
Vì vậy, các bác sĩ được dặn là không được phát thuốc kháng sinh một các bừa bãi. Từ từ giữa năm 2014, đã có hơn một triệu người bỏ mạng từ những siêu vi khuẩn kháng kháng sinh như vậy.
Một người đàn ông mắc bệnh giang mai, khi mà chưa có kháng sinh điều trị.
Ngày nay, những bệnh lây truyền qua đường tình dục thì có thể được giải quyết đơn giản bằng một chuyến đi tới phòng khám và một đơn thuốc kháng sinh. Nhưng trong quá khứ, mọi chuyện không đơn giản như vậy. Những bệnh như thế không hề có thuốc chữa và thường dẫn tới tử vong.
Chữa bệnh lao bằng phương pháp chuẩn mực nhất: đó là hít khí trời.
Bệnh lao truyền nhiễm qua việc người bệnh ho hoặc hắt hơi, phát tán vi khuẩn ra không khí. Căn bệnh lao quái đản này đã từng lây lan rất mạnh tại Vương quốc Anh.
Chủ yếu bệnh lao sẽ tấn công vào phổi của bệnh nhân nhưng nó cũng có thể để lại di chứng trên rất nhiều bộ phận khác, gồm có các tuyến (tuyến nội tiết, tuyến giáp, ...), xương và cả hệ thần kinh.
Nhờ có thuốc kháng sinh, mà bệnh lao không còn hoành hành ở thời điểm hiện tại nữa.
Hít khí trời – Cách chữa bệnh lao tại London vào năm 1936.
Vào cái thời "hỗn mang" đó, một vết giấy cắt cũng có thể gây chết người, bất kì vết thương hở nào cũng có thể nhiễm trùng, thậm chí cả việc làm phẫu thuật tưởng chừng như cứu sống được bệnh nhân cũng có thể khiến bệnh nhân chết vì nhiễm trùng.
Trong một tương lai có vẻ cũng nguy hiểm như quá khứ không có thuốc kháng sinh, bât kì một hành động thúc đẩy hệ thống miễn dịch của chúng ta sẽ đều rất nguy hiểm. Ví dụ như việc điều trị ung thư bằng phóng xạ hay việc ép thuốc kháng sinh vào hệ miễn dịch mỗi khi thực hiện những ca phẫu thuật ghép tạng.
Nhiễm trùng sau khi phẫu thuật là một hiểm họa tại năm 1921.
Việc sinh đẻ cũng cực kì nguy hiểm, trước khi thuốc kháng sinh ra đời.
Việc các bà mẹ và những đứa trẻ mới sinh thiệt mạng là chuyện không hiếm gặp, cho đến những năm 1930, khi mà kháng sinh ra đời. Ngày nay, nguy cơ phụ nữ tử vong trong lúc sinh con đã giảm đi 40 tới 50 lần so với 60 năm về trước.
Sinh con vào những năm 1921 là một rủi ro lớn.
Tất nhiên là có. Các công ty dược đang liên tục cố gắng sản xuất ra những loại thuốc kháng sinh mới. Mặc dù mọi chuyện không dễ dàng như thế, từ những năm 1980 cho tới nay, vẫn chưa có một loại thuốc kháng sinh mới nào ra đời.
Nhưng có vẻ như có một chút kì vọng ở loại thuốc kháng khuẩn mới. Các nhà khoa học đang tạo ra một loại hợp chất hữu cơ kháng khuẩn, thậm chí một số còn được tạo từ các loài côn trùng!
Và bên cạnh đó còn có những tia hy vọng từ công nghệ nano, những cỗ máy siêu nhỏ sẽ thâm nhập vào cơ thể ta và tiến hành loại bỏ vi khuẩn.
Tiêm kháng sinh kháng khuẩn Lao vào những năm 1950.
Bên cạnh sự cố gắng của các bác sỹ, những người nông dân chăn nuôi cũng góp phần vào cuộc chiến chống kháng kháng sinh này. Châu Âu đã cấm việc cho gia súc và gia cầm sử dụng thuốc kháng sinh để kích thích tăng trưởng. Mặc dù vậy việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi vẫn xảy ra trên toàn cầu, đó là một trong những lý do tại sao siêu khuẩn kháng kháng sinh đã xuất hiện tại Trung Quốc.
Các bác sỹ đang chịu áp lực cực lớn khi mà không được phân phát thuốc kháng sinh với số lượng lớn cho bệnh nhân, điều mà mọi bác sỹ vẫn làm "như cơm bữa" trước đây. Kháng sinh được đưa vào sử dụng kể cả đối vỡi những trường hợp nhiễm bệnh do virus, mà những bệnh do virus gây ra thì không thể chữa khỏi bằng kháng sinh được.
Bản thân mỗi chúng ta đều có thể làm nên sự khác biệt, khi bác sỹ khuyến cáo bạn hãy sử dụng thuốc kháng sinh đúng liều lượng đúng số ngày yêu cầu,bạn hãy tuân thủ theo đúng những gì bác sỹ dặn. Đừng dừng lại ngay khi bạn thấy khỏe hơn, việc đó sẽ giúp ngăn chặn việc vi khuẩn phát triển khả năng kháng lại thuốc.
Và nếu bạn không muốn những loại vi khuẩn đó tấn công mình, hãy nghiêm ngặt với bản thân hơn về vấn đề vệ sinh cá nhân. Bắt đầu bằng hành động nhỏ nhất làrửa tay trước khi ăn.
Các bệnh về gan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn cầu. Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của gan.
Có thể bạn uống quá liều cà phê hay uống một ly nước tăng lực, bạn gặp dấu hiệu run rẩy, nhịp tim không đều, đau bụng và các tác dụng phụ khác của caffeine. Từ việc uống nước đến ăn chuối, hãy tìm hiểu cách thực sự hiệu quả để trung hòa tác dụng của quá nhiều caffeine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) và vitamin K2 (menaquinone) là hai vi chất dinh dưỡng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển hóa canxi và phát triển hệ xương. Trong bối cảnh trẻ em có xu hướng giảm đáng kể tiếp xúc với ánh nắng tự nhiên (nguồn tổng hợp chính của vitamin D3) và chế độ ăn uống của trẻ không đảm bảo đủ lượng vitamin K2, việc bổ sung phối hợp hai vi chất này thông qua các sản phẩm bổ sung ngày càng được quan tâm của các chuyên gia dinh dưỡng nhi khoa cũng như các bậc cha mẹ.
Suy thận thường được coi là bệnh của người lớn tuổi nhưng thực tế, các yếu tố nguy cơ và thói quen ăn uống không lành mạnh ở một bộ phận người trẻ có thể âm thầm dẫn đến suy thận.
Trong suốt lịch sử y học, tiêm chủng được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất, mang lại khả năng phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn tồn tại không ít lo ngại và hiểu lầm về quy trình và tác dụng của việc tiêm vaccine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) là một vi chất dinh dưỡng thiết yếu, có vai trò trung tâm trong quá trình khoáng hóa xương, chuyển hóa canxi–phospho, hỗ trợ hệ miễn dịch, điều hòa nội tiết và góp phần phòng ngừa nhiều bệnh mạn tính. Các thụ thể vitamin D được tìm thấy ở hầu hết các mô trong cơ thể, cho thấy phạm vi ảnh hưởng sinh học rất rộng của vitamin D(1).
Mùa hè với ánh nắng gay gắt là thời điểm làn da dễ bị tổn thương nhất. Vậy làm sao để bảo vệ da không bị bắt nắng, duy trì làn da khỏe mạnh và sáng mịn?
Trong số các vitamin thiết yếu đối với cơ thể, Vitamin K2 đang ngày càng được chú ý nhờ vai trò nổi trội đối với sức khỏe xương và tim mạch. Tuy nhiên, nhiều người tiêu dùng vẫn còn băn khoăn rằng: liệu tất cả các dạng Vitamin K2 có thực sự giống nhau và mang lại hiệu quả như nhau? Hãy cùng Viện Y học ứng dụng Việt Nam làm rõ những điểm khác biệt giữa các dạng Vitamin K2 trong bài viết dưới đây.