Túi sa niệu quản: Phát hiện sớm, tránh biến chứng
Mỗi người bình thường được sinh ra với 2 thận và mỗi thận lại có một niệu quản giúp việc dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang. Tuy nhiên, cứ khoảng 125 người lại có 1 người có thể có “thận niệu quản đôi”, nguy cơ đi kèm với bệnh lý này là tình trạng “túi sa niệu quản”. Bệnh có thể gặp ở bất cứ tuổi nào, từ trẻ sơ sinh cho đến tuổi già, nhưng bệnh gặp nhiều ở trẻ em.
Túi sa niệu quản (TSNQ) là một dị tật bẩm sinh thường gặp ở trẻ gái hơn ở trẻ trai. Đó là một phần nổi phồng lên trong bàng quang của đoạn cuối niệu quản. Túi phình này có thể là tắc dòng nước tiểu chảy xuống bàng quang.
TSNQ có thể: Phình rất to, chiếm phần lớn bàng quang hoặc chỉ là một túi phình nhỏ; Ở trong hoặc ngoài bàng quang hoặc xuống tới cổ bàng quang hay niệu đạo; Xảy ra với thận niệu quản đơn hoặc thận niệu quản đôi. 90% túi sa niệu quản ở trẻ gái là thận niệu quản đôi; Có thể có hoặc không phối hợp với luồng trào ngược bàng quang thận; Có thể xảy ra cả 2 bên phải và trái.
TSNQ cũng có thể gặp với niệu quản đơn. TSNQ là tình trạng giãn thành nang giả của đoạn niệu quản đổ vào phần dưới niêm mạc bàng quang.
TSNQ trong thận niệu quản đôi có thể phối hợp với luồng trào ngược bàng quang thận làm cho dòng nước tiểu chảy ngược từ bàng quang lên thận qua niệu quản cùng bên.
TSNQ thường được phát hiện ra ở khoảng 2 tuổi nhưng cũng có thể chẩn đoán được dị tật này từ trong bào thai với phương pháp chẩn đoán trước sinh.


Thường rất ít triệu chứng, có thể là: đau, mỏi lưng hoặc đau bụng; nhiễm khuẩn tiết niệu; sốt; tiểu buốt; nước tiểu nặng mùi; Tiểu ra máu; tiểu nhiều lần;
Ở trẻ em, có thể thấy các triệu chứng lâm sàng như: nhiễm khuẩn tiết niệu: sốt cao, tiểu đục, chậm lớn; Những rối loạn tiểu tiện: Đái khó, đái dắt từng lúc, đái đau, đái rỉ.
Ở người lớn, có thể thấy đau vùng thắt lưng âm ỉ, có lúc đau tăng lên thành cơn như cơn đau quặn thận. Nhiễm khuẩn tiết niệu biểu hiện dưới dạng viêm bàng quang cấp tính hoặc bán cấp tái phát, viêm thận bể thận tái phát hoặc đái mủ. Có các rối loạn tiểu tiện như đái buốt, đái dắt, đặc biệt là đái khó. Đái khó thường xuyên hoặc xuất hiện thành cơn gây nên bí đái mạn tính không hoàn toàn.
Biến chứng chính quan trọng nhất của TSNQ là gây hủy hoại và nhiễm trùng thận. TSNQ làm tắc dòng chảy của nước tiểu có thể gây tổn thương sự phát triển bình thường của thận cũng như giảm khả năng lọc cầu thận.
Luồng trào ngược bàng quang thận rất hay phối hợp nếu ở thận niệu quản đôi. Hơn nữa, với thận niệu quản đơn, luồng trào ngược có thể xảy ra ở bên đối diện. Có thể sinh ra sỏi tiết niệu.
TSNQ hoàn toàn có thể chẩn đoán trước sinh nhờ siêu âm. Với những trẻ có triệu chứng như đã nói ở trên, đặc biệt là triệu chứng nhiễm khuẩn tiết niệu, cần làm thêm chẩn đoán hình ảnh để phát hiện túi sa niệu quản.
Siêu âm là kỹ thuật hàng đầu giúp chẩn đoán. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác sẽ góp phần chẩn đoán mức độ bệnh.
Ngoài ra, chụp bàng quang niệu đạo, chụp CT, chụp cộng hưởng từ (MRI cho phép phẫu thật viên lựa chọn phương pháp phẫu thuật.
Phương pháp điều trị ngoại khoa có thể là:
Chọc dò qua niệu đạo: Thường chỉ định cho túi sa niệu quản đúng chỗ trong bàng quang và thành mỏng. Với nội soi bàng quang, túi sa niệu quản được chọc thủng hoặc rạch nhỏ làm xẹp đi giúp dòng nước tiểu chảy dễ dàng từ thận xuống bàng quang.
Cắt cực trên thận: Trong một số trường hợp thận niệu quản đôi, khi túi sa niệu quản làm cực trên thận tương ứng không còn chức năng thì cần cắt bỏ phần này.
Cắt thận: Thường ở thận niệu quản đơn nếu túi sa niệu quản làm mất chức năng thận.
Mổ cắt túi sa và trồng lại niệu quản: Đây là phẫu thuật mở với kết quả rất cao (90-95%). Mở bàng quang, cắt bỏ túi sa và trồng lại niệu quản vào thành bàng quang.
Nối niệu quản – bể thận hoặc nối niệu quản – niệu quản: Nếu phần trên của niệu quản có túi sa còn tốt và nếu không có luồng trào ngược ở phần dưới thì có thể áp dụng phương pháp nối phần bị tắc vào phần không tắc của niệu quản hoặc bể thận.
Điều trị nội khoa: Kháng sinh được sử dụng để dự phòng viêm thận. Với trẻ có túi sa gây tắc hoặc luồng trào ngược bàng quang thận, cần dùng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn tiết niệu cho đến khi mổ.
Dùng nước gạo lên men để làm đẹp tóc là một phương pháp được áp dụng từ lâu. Việc xả tóc bằng nước gạo lên men mang lại nhiều lợi ích vượt trội hơn so với nước vo gạo thông thường.
Mùa đông với không khí lạnh và khô hanh khiến trẻ nhỏ dễ mắc các bệnh về đường hô hấp. Khi thời tiết chuyển lạnh, trẻ thường ở trong nhà nhiều hơn, tạo điều kiện cho vi khuẩn và virus lây lan nhanh chóng. Hiểu biết về các bệnh này, từ nguyên nhân, triệu chứng đến cách phòng ngừa, là chìa khóa để cha mẹ bảo vệ sức khỏe trẻ nhỏ, giúp các bé vượt qua mùa đông an toàn và khỏe mạnh.
Hệ xương khớp đóng vai trò nền tảng trong việc duy trì khả năng vận động, giữ tư thế, và đảm bảo chất lượng cuộc sống. Hệ thống này bao gồm xương, sụn, dây chằng, gân và cơ bắp – chúng phối hợp nhịp nhàng đảm bảo các chức năng di chuyển linh hoạt và chịu đựng áp lực cơ học hàng ngày.
Mùa thu với không khí mát mẻ là thời điểm lý tưởng để bắt đầu hoặc duy trì thói quen tập luyện thể thao ngoài trời. Tập ngoài trời không chỉ mang lại lợi ích về mặt thể chất, mà còn giúp bạn tận hưởng thiên nhiên, giảm căng thẳng và cải thiện sức khỏe toàn diện. Bài viết này sẽ khám phá những lợi ích của việc tập luyện và gợi ý các bài tập phù hợp để bạn duy trì sức khỏe trong mùa thu.
Ăn nhiều rau từ lâu đã được xem là chìa khóa vàng giúp kiểm soát cân nặng. Tuy nhiên, không phải cứ ăn càng nhiều rau thì càng gầy. Nhiều người dù ăn rau hằng ngày vẫn không giảm được cân, thậm chí còn gặp vấn đề tiêu hóa. Nguyên nhân nằm ở những sai lầm dưới đây...
Mặc dù biện pháp tránh thai thường an toàn khi sử dụng, nhưng vẫn có những tác dụng phụ tiềm ẩn gây nguy hiểm cho sức khỏe ngoài những tác dụng phụ phổ biến như tăng cân hoặc chảy máu bất thường (rong kinh). Cùng tìm hiểu những tác dụng phụ nguy hiểm nhất của thuốc tránh thai qua bài viết sau đây!
Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, giàu protein có thể giúp chúng ta no lâu hơn và tăng cường trao đổi chất. Vậy ăn trứng vào thời điểm nào giúp tăng hiệu quả giảm cân?
Ung thư phổi giai đoạn 0, được gọi là ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), có nghĩa là các tế bào bất thường đã được tìm thấy trong niêm mạc đường thở trong một khối u duy nhất, không xâm lấn. Các tế bào này có khả năng lây lan và phát triển thành ung thư.