Những sai lầm cần tránh khi dùng kháng sinh
Uống thuốc mau dứt triệu chứng mới là thuốc tốt
Khi bị bệnh, ai cũng muốn bệnh mau khỏi. Chính tâm lý này mà bệnh nhân tin rằng thuốc “mạnh” mới là thuốc tốt. Vì thế, một số (không phải tất cả) bác sĩ (hoặc nhà thuốc) đã “chiều lòng” bệnh nhân mà kê đơn thuốc kháng sinh liều cao, thuốc thế hệ mới... khi chưa cần thiết phải dùng. Rồi các bệnh nhân truyền miệng cho nhau “bác sĩ A” giỏi, “nhà thuốc B” bán thuốc tốt, nên uống thuốc vào bệnh khỏi nhanh... Tuy nhiên, họ đâu biết rằng kháng sinh uống sai cũng như uống độc dược. Khi dùng liều cao sẽ tăng nguy cơ gặp tác dụng phụ, tăng độc tính của thuốc. Nhẹ thì ngứa ngáy khó chịu, nổi ban, nặng có thể bị sốc phản vệ dẫn đến tử vong... Và điều tệ hại là khi đã dùng kháng sinh “mạnh, liều cao” sẽ dẫn đến việc “nhờn” thuốc.
Uống thuốc không đủ liều
Tâm lý chung dựa trên sự hiểu biết không đầy đủ của rất nhiều người bệnh thường là “thuốc tây nó hại” lắm, cho nên chỉ cần uống mấy liều thấy đỡ rồi thì thôi, chứ uống làm gì nhiều cho hại người.
Tuy nhiên, kháng sinh có tác dụng tiêu diệt hoặc kìm khuẩn, nhưng phải được sử dụng đúng liều và đủ thời gian thì mới có được tác dụng này. Nếu dừng thuốc khi bệnh mới thuyên giảm (chưa hết thời gian dùng thuốc), vi khuẩn lúc này mới chỉ bị yếu đi, sẽ sống lại trong môi trường kháng sinh đã giảm nồng độ. Chúng sẽ “rút ra kinh nghiệm” chống kháng sinh và sẽ tồn tại mạnh mẽ hơn. Vi khuẩn sẽ sản sinh ra thế hệ sau “gan lì” hơn và tất nhiên, kháng sinh không còn tác dụng với chúng. Đó là lý do vì sao phải dùng kháng sinh đủ ngày, dùng kháng sinh là phải “đánh” tận gốc vi khuẩn. Các nhà khoa học đã tính toán, tùy theo liều dùng mà kháng sinh thông thường cần phải uống đủ 7 - 10 ngày thì vi khuẩn mới “sạch” được.
Sai lầm khi dùng kháng sinh, dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng.
Dùng thuốc theo mách bảo
Thường các phụ huynh hay chia sẻ với nhau về bệnh của con mình. Chia sẻ này thường nhận được sự cảm thông: “Bệnh này giống hệt bệnh của con tôi, để tôi đưa cho cái thuốc con bé nhà tôi đã dùng, nhanh khỏi lắm, đỡ phải đưa con đi khám bệnh vừa tốn kém, vừa chờ đợi lâu mà biết đâu lại bị lây bệnh khác...”. Và thế là không ít phụ huynh “tặc lưỡi” nhận thuốc được tặng (hoặc đi mua thuốc giống hệt) về dùng cho con.
Điều này là sai lầm lớn, nhưng thực tế lâm sàng lại rất hay gặp ở các phụ huynh. Bởi ngay cả khi có thể là bệnh giống hệt nhau thì việc dùng kháng sinh trên mỗi cá thể bệnh nhân lại khác nhau.
Dùng lại thuốc của lần trước
Với tâm lý ngại đi khám bệnh và tiếc tiền thuốc, không ít các trường hợp bệnh nhân sử dụng lại thuốc của lần dùng trước, khi có triệu chứng bệnh giống nhau. Đây là một sai lầm lớn, bởi có thể bệnh lần sau dù có triệu chứng “giống” với lần trước nhưng chưa chắc đã phải cùng là một bệnh. Mà ngay cả khi bệnh đó tái phát thì việc dùng thuốc của lần sau chưa chắc đã giống lần trước. Hơn nữa, thuốc của lần trước (đã mua được bao nhiêu ngày, tháng? Đã mở hộp/lọ/vỉ thuốc ra chưa?) thì chất lượng thuốc không chắc đã được bảo đảm. Bởi chất lượng cuả thuốc còn phụ thuộc vào việc bảo quản: Nhiệt độ, tủ thuốc, ánh sáng... Nếu việc bảo quản này không tốt có thể làm thay đổi, thậm chí mất tác dụng của thuốc. Do đó, đừng bao giờ trả giá với sinh mệnh của mình khi dùng lại thuốc đã cũ.
Tự ý đổi thuốc
Kháng sinh dù có mạnh đến đâu, cũng cần có thời gian nhất định để phát huy tác dụng, chứ không thể vừa uống, bệnh đã khỏi. Nhiều cha mẹ cho con uống thuốc chưa hết liều nhưng thấy con không có dấu hiệu thuyên giảm thì yêu cầu bác sĩ đổi thuốc ngay. Nhiều trường hợp bác sĩ giải thích thì không nghe, còn chê “bác sĩ trình độ kém” và đi khám bệnh nơi khác chiều ý mình mới chịu. Đây cũng là một sai lầm của rất nhiều bệnh nhân.
Còn đối với bác sĩ, khi bệnh nhân dùng thuốc không có tác dụng, họ sẽ cần xem xét đến các khía cạnh như: Bệnh nhân đã tuân thủ đúng liều chưa? khả năng đáp ứng thuốc của cơ thể bệnh nhân như thế nào... rồi mới ra chỉ định tiếp theo được.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tiêu chảy do kháng sinh ở trẻ em
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.